Thứ Sáu, 15 tháng 2, 2013

Quan Việt ăn chơi phải chịu nhục

 

                             Quan Việt ăn chơi phải chịu nhục

                        Bọn quan việt cộng vốn điên tiền,
                        Đem của đem tài đến cõi tiên.
                        Chơi gái Trung hoa thèm món lạ,
                        Máy quay cảnh lạc lộ củ riềng.
                        Tàu đem  chứng cứ trò thâm độc,
                        Quan thẹn đất trời cảnh xiển xiên!
                        Nên phải nghe lời nơi mẫu quốc,
                        Hiến dâng Nước Việt hết ưu phiền.

                                                          Nguyễn Lộc

                                                 

Thứ Bảy, 9 tháng 2, 2013

Lời nguyện ước xa xưa

                                   

                                     Lời nguyện ước xa xưa.

                     Mơ màng thao thức giữa đêm đông,
                     Tiếng pháo xa xưa nhớ ngập lòng.
                     Khắc khoải đưa hồn về quê cũ,
                     Chập chờn sống lại những ngày trong.
                     Nghi ngút khói hương chàoTết đến,
                     Lâm râm lời nguyện đón xuân nồng...
                     Gia đình đoàn tụ thôi chia cắt,
                     Đất Nước an vui thoả ước mong .

                                                   Nguyễn Lộc

Thứ Năm, 7 tháng 2, 2013

Cái chết của một người nghệ sĩ   [đối thoại]

PHẠM DUY
(1921-2013)

Tôi nghe tin nhạc sĩ Phạm Duy qua đời, trước tiên, từ một người bạn, sau đó, qua các bản tin trên báo chí. Cảm giác của tôi, thoạt đầu, là dửng dưng; sau đó, là sự ngạc nhiên về sự dửng dưng của mình.
Tính tôi vốn sợ cái chết, máu me cũng như bất cứ cái gì liên quan đến cái chết. Ngay cả khi xem phim hay tivi, thấy những cảnh máu me chết chóc là tôi quay mặt đi. Dự đám tang, điều tôi sợ nhất là nhìn gương mặt của người chết trong quan tài. Nếu tránh được, bao giờ tôi cũng tránh. Và bất cứ cái chết nào của người thân quen cũng đều để lại trong tôi những dư âm thật nặng nề. Cái chết của những người trong giới văn nghệ, những người tôi đã tiếp xúc hoặc thường đọc lại càng gây ấn tượng mạnh, thường làm tôi nghĩ ngợi trong nhiều ngày, nhiều tháng, có khi, nhiều năm. Cảm giác chung là, bao giờ tôi cũng thấy một chút sững sờ, rồi hoang mang. Với tôi, nghệ sĩ nào cũng chết trẻ. Có chết lúc đã trên 70, 80, hoặc ngoài 90 như Phạm Duy, vẫn là chết trẻ. Có lẽ lý do chính là, nhìn qua lăng kính của tác phẩm, bao giờ tôi cũng thấy họ trẻ trung, thậm chí, trẻ thơ, đặc biệt với các nhà thơ.
Nhưng tại sao nghe tin Phạm Duy mất, tôi lại vẫn dửng dưng?
Thú thực, đến bây giờ, lúc ngồi viết những dòng này, tôi vẫn không hiểu được. Chắc chắn không phải vì tôi xa lạ với ông, ghét ông hay khinh thường ông. Không phải. Về phương diện cá nhân, tôi gặp Phạm Duy vài lần. Có thời gian, lúc tôi còn ở Pháp và lúc ông mới xuất bản một số tập trong bộ hồi ký của ông, ông hay gọi điện thoại cho tôi. Có lần, gọi từ Mỹ, ông kể huyên thuyên về tình bạn của ông với nhà thơ Quang Dũng , điều được ông kể tỉ mỉ trong cuốn hồi ký ông viết sắp xong. Nổi hứng, ông đọc cho tôi nghe cả mấy trang về Quang Dũng trong cuốn ấy. Tôi hiểu hậu ý của Phạm Duy: Ông muốn tôi viết cái gì đó về bộ hồi ký của ông. Tôi khéo léo thoái thác. Sau đó, tôi qua Úc sống. Một dịp qua Úc, ông đến nói chuyện ngay trong trường đại học nơi tôi đang dạy, và ngày hôm sau, rủ tôi đi ăn sáng. Chuyện trò vẫn vui vẻ. Rồi thôi. Gặp nhau ít, nhưng ấn tượng của tôi về Phạm Duy rất tốt đẹp.
Vậy mà, nghe tin ông mất, tôi vẫn dửng dưng. Tại sao?
Vì tôi ít quan tâm đến âm nhạc ư? Cũng có thể. Trong các loại hình nghệ thuật, sau văn học, lãnh vực tôi cảm thấy gần gũi nhất là hội họa. Còn âm nhạc, với tôi, là một cái gì xa lắc. Tôi không hiểu, và thú thực, tôi cũng không thích, nhất là nghe các ca khúc. Tuy nhiên, tôi vẫn không nghĩ đây thực sự là lý do. Không thích, nhưng, thật ra, tôi vẫn nghe. Với Phạm Duy, tôi nghe từ nhỏ. Nhiều bản nhạc của Phạm Duy vẫn ám vào tôi. Có khi không nhớ cả bài, tôi vẫn nhớ từng câu; có khi không nhớ cả câu, tôi vẫn nhớ vài chữ, thường thì gắn liền với một giọng ca nào đó, để, khi đọc hay khi viết, đụng đến chữ ấy, tôi lại nghe vang lên trong đầu, trong lỗ-tai-bên-trong của tôi, âm hưởng ngân vang hay dìu dặt của một tiếng hát từ nhạc của Phạm Duy.
Vậy thì tại sao tôi lại dửng dưng?
Tôi lờ mờ nhận ra một lý do: Tôi không nghĩ là ông đã chết. Tôi không tin là ông đã chết. Mà thật, với một nghệ sĩ lớn như Phạm Duy, cái chết vật lý chỉ là một cái chết giả. Sự sống thực sự của một nghệ sĩ không nằm trong thể xác. Mà là ở tác phẩm. Bao giờ tác phẩm còn được đọc, được nghe, được ngắm, người nghệ sĩ vẫn còn sống. Để nói về nghệ sĩ và tác phẩm của họ, chúng ta hay dùng hai chữ “bất tử” và “bất hủ”. “Bất hủ” là điều kiện của “bất tử”: Bắt chước cách nói của Phạm Quỳnh khi bàn về mối quan hệ giữa Truyện Kiều và tiếng Việt cũng như vận mệnh của dân tộc Việt Nam, chúng ta cũng có thể nói: Tác phẩm còn thì người còn...
Cho đến nay, dường như chưa ai hoài nghi về tài năng âm nhạc của Phạm Duy; chưa ai phủ nhận những giá trị lấp lánh trên cả ngàn ca khúc mà ông sáng tác. Nhưng không phải ai cũng thanh thản thưởng thức những tác phẩm ấy. Nhiều người, rất nhiều người vẫn thấy có cái gì lấn cấn khi nghe đến nhạc Phạm Duy. Chính quyền ở trong nước vẫn không quên những bài hát chống cộng của ông trước đây nên dù ông đã lớn tuổi và đã về nước sống hẳn, họ vẫn tìm mọi cách để ngăn chận những tác phẩm ấy. Giấy phép cho các tác phẩm của ông chỉ được cấp một cách dè dặt. Trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại, quyết định về nước của Phạm Duy gây không ít bất mãn. Từ cả hai phía, nơi nào cũng thấy ít nhiều bị Phạm Duy phản bội. Ở đây, tôi không bàn đến chuyện cảm giác ấy đúng hay sai. Tôi không kết án hay bênh vực cho Phạm Duy. Tôi chỉ ghi nhận một sự kiện: chính những cảm giác ấy đã ngăn cản việc người ta tiếp cận với nhạc Phạm Duy.
Bây giờ Phạm Duy đã qua đời. Tất cả những nghi ngờ, bất đồng hay bất mãn sẽ dần dần chìm vào quên lãng. Con người thật của Phạm Duy sẽ không còn án ngữ trước khối lượng tác phẩm đồ sộ và nguy nga của Phạm Duy. Một lúc nào đó, nghĩ đến Phạm Duy, người ta sẽ không còn nhớ đến những chuyện đi kháng chiến rồi dinh tê, chuyện vào miền Nam rồi vượt biên hay chuyện sống ở Mỹ rồi quay về Việt Nam; người ta cũng không còn nhớ những câu phát biểu nhiều khi rất tùy hứng và tùy tiện của ông. Lúc ấy, nghĩ đến Phạm Duy, người ta chỉ nghĩ đến những bài hát do ông sáng tác.
Lúc ấy, tôi nghĩ, ông mới sống thật cuộc sống của ông. Một cuộc sống thật vĩ đại.



Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2013

Thứ Tư, 6 tháng 2, 2013

Chào xuân mới 2013

                                    

                                 Chào Xuân mới 2013.

                       Hoa xuân khoe sắc thắm,
                       Bướm lượn  dưới nắng vàng;
                       Hương bánh bay thơm ngát,
                       Pháo tí tách reo vang,
                       Đón chào năm mới đến.
                       Mọi nhà mâm ngũ quả,
                       Đèn thắp sáng lung linh,
                       Nhang thơm cùng thiệp chúc,
                       Chan chứa những ân tình;
                       Một năm mới an lành,
                       Hoà bình cho nhân loại,
                       Tránh bom đạn chiến tranh.

                                              Nguyễn Lộc
                    
                  

                 

Thứ Ba, 5 tháng 2, 2013

Mộng đời

                                              
                                            

                                             Mộng đời

                          Tâm ta sao trống rỗng,
                          Mọi tạp niệm dồn chân.
                          Sắc màu như chuyển động,
                          Giữa đất trời mênh mông.
                          Ta nghe lòng nặng trĩu,
                          Từng sát na đi về;
                          Cô đơn và vắng lặng,
                          Trong cõi đời u mê.
                          Tiếng ai như tiếng tơ,
                          Từ tiền kiếp đê mê;
                          Theo ta qua muôn thuở,
                          Nhẹ nhàng những lời thơ.
                          Xin người hãy cho tôi
                          Dù chỉ một lần thôi,
                          Hình ảnh người đâu đó;
                          Đưa tôi vào cơn mơ.

                                           Nguyễn Lộc

                   

Thứ Sáu, 1 tháng 2, 2013

Lệ cho nhau



                                     Lệ cho nhau

                     Hoa tuyết trắng trên cành,
                     Sương khói toả long lanh.
                     Nắng nhạt màu nhung nhớ,
                     Khép nép chiều mong manh.
                     Hoa giấy rơi ngày ấy,
                     buông lơi thắm mái đầu.
                     Mắt lặng nhìn xa vắng,
                     Dấu tủi hờn cho nhau.

                                         Nguyễn Lộc

                                      

Chủ Nhật, 27 tháng 1, 2013

Chúc Xuân 2013

                                  

                                       Chúc Xuân 2013

                Ngoài trời gió lạnh tuyết rơi,
                Đón mùa xuân mới bên trời nhớ thương.
                Chúc nhau ý chí kiên cường,
                Xa lìa đảng cộng theo đường tự do.
                Bao năm tẩy não ốm o,
                Bị đảng và bác phóng loa tuyên truyền.
                Ai ơi hãy nhớ lời thiêng,
                Chúng ta dân Việt còn nguyên sử vàng.
                Ác thay việt cộng dã man,
                Đem tài đem đức lời vàng mua vui,
                Lừa dân kém trí nhất thời;
                Dựng xây Đảng cướp hưởng đời giàu sang.
                Trăm năm bia miệng còn vang,
                Những phường bán Nước nát tan thi hài.
                Hãy mau thức tỉnh giăng tay,
                Cùng nhau tạo dựng ngày mai huy hoàng.
                                                      
                                                             Nguyễn Lộc

Thứ Sáu, 18 tháng 1, 2013

Dân Việt chờ Xuân độc lập



                        Dân Việt chờ Xuân độc lập

                     Nô lệ ngoại bang nhục đã lâu,
                     Bao nhiêu xuân đến cũng thêm sầu.
                     Sâu dân mọt Nước ì ra đó,
                     Dân trí dân quyền chẳng thấy đâu.
                     Việt cộng bù nhìn vui bổng lộc,
                     Dân oan chân lấm khóc canh thâu.
                     Trông chờ Đất Nước mau thay đổi,
                     Diệt bọn tham tàn hết khổ đau.

                                                    Nguyễn Lộc
                    

          

Chủ Nhật, 13 tháng 1, 2013

Trần Huy Bích - MỘT BÀI THƠ NGỤ Ý THẬT HÀM SÚC CỦA THI SĨ VŨ HOÀNG CHƯƠNG


Trần Huy Bích

Sau khi những người Cộng sản lấy được miền Nam tháng 4 năm 1975, hầu hết văn nghệ sĩ của miền Nam đều bị bắt giam. Thi sĩ Vũ Hoàng Chương bị họ bắt ngày 13 tháng 4 năm 1976, đưa vào giam ở khám Chí Hoà. Khi ông bị bệnh gần nguy kịch, họ mới đưa về để chết ở nhà. Năm hôm sau ông qua đời, nhằm ngày 6 tháng 9 năm 1976 tại Sàigòn.


Thi sĩ Vũ Hoàng Chương

Một số thơ ông làm sau tháng 4-1975 như bài “Tranh gà lợn,” hoặc bài thơ từ nhà giam gửi về thăm vợ con, đã được phổ biến rộng rãi. Tuy nhiên, một số thi phẩm khác, như 12 bài thơ vịnh một số nhân vật lịch sử và văn học Việt Nam (như Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát …) cùng lịch sử và văn học Trung Hoa (như Hán Vũ đế, Thôi Hộ, Trần Đào, Bành Ngọc Lân …) chưa đuợc nhiều người biết tới. Chúng tôi xin giới thiệu một trong những bài thơ ấy ở phía sau. Đây là bài thơ Vũ Hoàng Chương viết về Bành Ngọc Lân, một danh tướng Trung Hoa cuối đời Thanh. Bài này cũng là một trong những bài thơ hay nhưng ý tưởng rất kín đáo, hàm súc của thi hào họ Vũ. Viết sau khi miền Nam rơi vào tay Cộng sản, ngụ ý thời thế của ông rất rõ, nhưng người đọc cần lưu tâm mới nhận thấy.

ĐỌC LẠI NGƯỜI XƯA: BÀNH NGỌC LÂN

Thập vạn đại quân tề cổ chưởng
Bành lang đoạt đắc Tiểu Cô hồi. 

Bành lang đoạt Tiểu Cô về
Hùng binh mười vạn nhất tề vỗ tay
Riêng Cô Bé vẫn ngồi ngây
Xanh xanh ngàn dặm tóc mây hững hờ
Từ bao giờ đến bao giờ
Chẳng xiêu lòng núi vì thơ họ Bành
Kể chi lúc ấy đời Thanh
Sá chi người ấy là danh tướng nào
Tiểu Cô sơn chỉ nhìn cao
Nghe Bành Lang độ thấm vào lòng chân
Non xưa bến cũ nhập thần
Đoạt non về bến đâu cần hùng binh.

Để có thể trình bày rõ ý nghĩa bài thơ, trước hết xin được nói qua ít hàng về Bành Ngọc Lân. Sau đó, xin giải thích mấy câu thơ chữ Hán của họ Bành được trích dẫn phía trên, cùng giải thích một số danh từ riêng trong bài thơ như Tiểu Cô sơn, Bành Lang độ.

Bành Ngọc Lân:

Bành Ngọc Lân (彭玉麟 -- Peng Yulin)  là một danh tướng Trung hoa cuối đời Thanh, sinh năm 1816, mất năm 1890. Khi cuộc loạn Thái Bình Thiên Quốc (với những lãnh tụ Hồng Tú Toàn, Dương Tú Thanh …) bùng nổ, chiếm gần nửa nước Trung hoa và Nam kinh để lập kinh đô,  rạch đôi giang sơn với nhà Thanh trong 11 năm từ 1853 tới 1864, triều đình nhà Thanh đã rung rinh, đất nước cực kỳ xáo trộn. Góp công đáng kể nhất trong việc dẹp yên được Thái Bình Thiên Quốc là một nhân sĩ tỉnh Hồ nam là Tăng Quốc Phiên (Zeng Guofan) cùng một đạo quân tình nguyện, đa số gốc Hồ nam, lấy tên là “Tương quân” (“quân đội vùng sông Tương,” một con sông chảy qua tỉnh Hồ nam). Bành Ngọc Lân là một tướng lãnh của đạo quân tình nguyện ấy, chỉ huy thủy binh, có công rất lớn trong việc dẹp Thái Bình Thiên Quốc.  Sau đó ông được cử làm Thủy sư Đô đốc, dần dần thăng tới Binh bộ Thượng thư của nhà Thanh. Sau khi người Pháp lấy miền Bắc Việt Nam và đem quân tới biên giới Hoa Việt năm 1883-84, Bành Ngọc Lân đã tới biên giới trong chức Binh bộ Thượng thư để quan sát cùng tổ chức việc phòng thủ. Ông về hưu và mất ít năm sau đó.

Tiểu Cô sơn:
Có nhiều Tiểu Cô sơn (小孤山 -- Xiaogushan hay Hsiao ku shan) trong lãnh thổ Trung hoa. Nếu tra cứu các tài liệu địa dư, ta sẽ thấy ít nhất 5 ngọn núi có tên như thế tại Nội Mông cổ, Cam túc (Gansu), Cát lâm (Jilin), Liêu ninh (Liaoning), và An huy (Anhui). Ngọn Tiểu Cô sơn do Bành Ngọc Lân chiếm được và nhắc tới trong bài thơ này nằm trong tỉnh An huy. Núi này ở gần tỉnh lỵ An khánh (Anqing), sát bên bờ Trường giang (Dương tử giang). Quân Thái Bình Thiên Quốc đóng trên núi này đã bắn xuống dữ dội, ngăn chặn đường tiến binh của đạo thủy quân do Bành Ngọc Lân chỉ huy trên đường tới bao vây Nam kinh. Muốn các chiến thuyền của mình có thể đi qua một cách an toàn, Bành Ngọc Lân bắt buộc phải đánh chiếm ngọn núi. Theo các sử liệu Trung hoa, việc này xảy ra vào tháng 2 năm 1853. Sau khi chiếm được núi, Bành Ngọc Lân cao hứng làm ra bài thơ sau:

書生笑率戰船来,
江上旌旗耀日開,
十萬貔貅齊奏凱
彭郎奪得小姑回

Thư sinh tiếu suất chiến thuyền lai
Giang thượng tinh kỳ diệu nhật khai
Thập vạn tì hưu tề tấu khải
Bành lang đoạt đắc Tiểu Cô hồi.

Nghĩa:
Thư sinh vừa cười vừa đốc thúc chiến thuyền tiến lại
Trên sông, cờ xí, các sao sáng và mặt trời cùng mở ra 
(chỉ việc quân Thái Bình Thiên Quốc bắn xuống như mưa)
Mười vạn quân dũng mãnh cùng hát khúc ca chiến thắng:
“Bành lang đã đoạt được Tiểu Cô trở về.”

Thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã đưa hai câu cuối của bài thơ này lên phía trước bài thơ của ông nhưng đổi đi mấy chữ trong câu thứ ba. Ông đã đổi “thập vạn tì hưu” (mười vạn quân dũng mãnh, do nghĩa gốc của “tì hưu” là con gấu trắng, một giống thú rất mạnh) ra “thập vạn đại quân” (đạo quân đông tới mười vạn). Ông cũng đổi “tề tấu khải” (cùng hát khúc ca chiến thắng) ra “tề cổ chưởng” (cùng vỗ tay), có lẽ để gần với hoàn cảnh của Việt Nam năm 1975 hơn.

Từ  “Tiểu Cô sơn 小孤山” tới “Tiểu Cô 小姑”: Mối chung tình của Bành Ngọc Lân:

Một điểm đáng lưu ý là ngọn núi được nhắc tới ở trên có tên小孤山 (núi nhỏ cô đơn) nhưng trong bài thơ, Bành Ngọc Lân đã cố tình viết sai, dùng một chữ cũng có âm “cô” nhưng nghĩa khác, là小姑 (người cô bé nhỏ). Thừa tiếp ý ấy, trong câu thơ thứ 3, Vũ Hoàng Chương viết, “Riêng Cô Bé vẫn ngồi ngây.” Muốn hiểu rõ điểm tế nhị này, ta cần biết qua về cuộc đời của Bành Ngọc Lân.

Khi còn ít tuổi, Bành Ngọc Lân yêu một thiếu nữ, con nuôi của bà ngoại ông. Đúng ra ông phải gọi bằng “dì” vì là em nuôi của mẹ. Nhưng hai người trạc tuổi, cùng lớn lên và chơi đùa với nhau, tình yêu đến một cách tự nhiên. Gia đình không chấp thuận vì trong xã hội cổ, một hôn nhân như thế có thể bị coi là “loạn luân.” Bành Ngọc Lân phải đưa đi học xa trong khi cô gái, có biệt danh Mai cô, được gả cho người khác. Một năm sau Mai cô qua đời, lý do chính là sinh nở khó, nhưng Bành Ngọc Lân suốt đời không quên. Ông tới mộ Mai cô thương khóc, nguyện sẽ vẽ một vạn bức tranh hoa mai để trọn đời nhớ tới cô (giữ lời nguyện, ông vẽ được trên một vạn bức tranh hoa mai, trở thành một trong những họa sĩ Trung hoa chuyên về hoa mai). Khi chiếm được Tiểu Cô sơn năm 1853, Bành Ngọc Lân đã 37 tuổi và Mai cô đã mất từ lâu. Sau một cuộc ác chiến rất gần cái chết nhưng đắc thắng, ông tưởng như từ cõi chết trở lại. Nhân lấy được Tiểu Cô sơn và trước kia vẫn gọi Mai cô là “Tiểu Cô” (người cô bé nhỏ), ông cao hứng, tưởng như đã đem được nàng từ cõi chết về theo:

Bành lang đoạt đắc Tiểu Cô hồi
(Bành lang đoạt được Tiểu Cô [từ cõi chết] trở về).

Mối thiện cảm Vũ Hoàng Chương dành cho Bành Ngọc Lân:  

Cùng có một tình đầu tan vỡ và cùng suốt đời không quên mối tình ấy, thi sĩ Vũ Hoàng Chương hẳn đã dành rất nhiều thiện cảm cho Bành Ngọc Lân. Ý tưởng nguyên thủy trong các câu:

  Bành lang đoạt Tiểu Cô về
Hùng binh mười vạn nhất tề vỗ tay
nhưng:
Riêng Cô Bé vẫn ngồi ngây

biểu lộ một  thông cảm “đồng cảnh” giữa thi nhân họ Vũ với vị tướng quân kiêm họa sĩ họ Bành: không thể làm sống lại người yêu cũ, không thể đổi được định mệnh. Dù có nhân chuyện cùng một âm “cô” để cố tình hiểu “ngọn núi cô đơn” ra “người cô bé nhỏ” thì sau khi đoạt về, “Tiểu Cô” cũng không còn sự sống. Nhưng mối thông cảm Vũ Hoàng Chương -- Bành Ngọc Lân đã dừng ở đó. Toàn bài, nhất là 6 câu cuối, là những phán đoán rất bình tĩnh của tác giả về cuộc thống nhất đất nước năm 1975.

Cuộc thống nhất Việt Nam năm 1975 qua ngòi bút của Vũ Hoàng Chương:

Sống tại miền Nam cho tới tháng 9 năm 1976, thi sĩ Vũ Hoàng Chương hẳn đã chứng kiến tận mắt những kinh hoàng của dân chúng trước cuộc tiến công của Hà nội trong các tháng 3 và 4-1975, được nghe tới nhàm chán những lời tự tôn đầy huênh hoang của kẻ chiến thắng, và nhất là hiểu rõ nỗi chua xót thấm thía của người dân miền Nam qua những câu “ca dao mới” như:

“Nam kỳ khởi nghĩa” tiêu “Công lý”
“Đồng khởi” vùng lên mất “Tự do.”

Bản thân ông, một người cầm bút, càng hiểu rõ thực trạng xã hội mới:
Rằng vách có tai, thơ có họa

và đã từng bị giam giữ trong cảnh ngộ:
Nửa manh chiếu nỉa hồn ngây ngất
Hai chén cơm rau xác mỏi mòn.

Sống tại Sàigòn, chắc chắn ông cũng từng nghe những câu nói rất được phổ biến trong dân chúng, “Đến cái cột đèn, nếu có chân, nó cũng muốn đi…”

Qua mấy câu đầu của bài “Đọc lại người xưa: Bành Ngọc Lân,” Vũ Hoàng Chương phác cho ta thấy một cảnh tượng tương phản: trong khi những người cầm đầu chế độ và tay chân của họ hớn hở, hồ hởi … tự ca tụng công ơn “giải phóng miền Nam,” thì những người được “giải phóng” không hưởng ứng, biểu lộ một thái độ dửng dưng, lãnh đạm:
Bành lang đoạt Tiểu Cô về
Hùng binh mười vạn nhất tề vỗ tay
Riêng Cô Bé vẫn ngồi ngây
Xanh xanh ngàn dặm tóc mây hững hờ.

Người dân miền Nam, vốn thực tế, không bị chi phối bởi những thơ văn tuyên truyền đầy tính cách phóng đại:
Từ bao giờ đến bao giờ

Chẳng xiêu lòng núi vì thơ họ Bành.

Vũ Hoàng Chương cũng ghi nhận thái độ khinh miệt, bất cần, không coi trọng kẻ chiến thắng, của đa số dân chúng miền Nam:

Kể chi lúc ấy đời Thanh
Sá chi người ấy là danh tướng nào
Tiểu Cô sơn chỉ nhìn cao
Nghe Bành Lang độ thấm vào lòng chân.

Trong cuộc tấn công giành Tiểu Cô sơn năm 1853, Bành Lang độ (bến Bành Lang) là nơi Bành Ngọc Lân cho thủy quân đổ bộ để đánh lên núi.

Ý tưởng then chốt của Vũ Hoàng Chương nằm trong hai câu cuối. “Non” và “nước” vốn có những liên hệ tình cảm mật thiết và thiêng liêng. Muốn đưa “non” về với “nước,” muốn non sông thống nhất, không phải chuyện quá khó, nhưng cần có những thứ khác hơn là sức mạnh quân sự:

Non xưa bến cũ nhập thần
Đoạt non về bến đâu cần hùng binh

vì như đã nói trên, nếu chỉ biết dùng sức mạnh để chiếm đoạt, sẽ được một cơ thể  không có sự sống:

… Cô Bé vẫn ngồi ngây
Xanh xanh ngàn dặm tóc mây hững hờ.

Tóm lại, “Đọc lại người xưa: Bành Ngọc Lân” không phải là một bài thơ phù phiếm, chỉ để bàn về mối tình đầu của một viên tướng Trung hoa cuối đời Thanh. Mượn chuyện đời xưa để nói chuyện đương thời, Vũ Hoàng Chương đã đưa ra một nhận xét có tính cách phán đoán về một sự kiện lịch sử xảy ra trong đời ông: việc thống nhất đất nước bằng cách xua quân chiếm miền Nam do những người cầm quyền ở Hà nội thực hiện năm 1975. Sống ở trong nước giữa giai đoạn ấy, ông không thể công khai nói một cách trực tiếp, nên đã để lại một bài thơ ngụ ý vô cùng hàm súc. Vũ Hoàng Chương rất xứng với danh hiệu một nhà thơ có lương tâm, phát biểu ý kiến một cách thành thật về những biến cố trong thời đại của mình, dù lời phát biểu ấy không hợp ý kẻ cầm quyền. Tuy chỉ dùng những lời thật hiền hoà, thái độ của ông không khác thái độ của Phùng Quán khi viết những câu sau đây:

Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ cầm dao viết văn lên đá.

Trần Huy Bích

Thứ Bảy, 12 tháng 1, 2013

Nghệ sĩ Kim chi khinh lời khen Thủ Tướng



                 Nghệ sĩ Kim Chi khinh lời khen Thủ Tướng.

                Kim Chi nghệ sĩ được khen tài,
                Vinh dự trao lời thật mỉa mai.
                Thủ Tướng biết gì mà múa miệng,
                Bọn quan dốt chữ lại ra oai.
                Chối từ quà tặng từ Dũng sĩ ! 
                Khinh rẻ lời ban đến các ngài.
                Mọt Nước sâu dân lìa khỏi chức,
                Mới mong hạnh phúc đến muôn loài.

                                                  Nguyễn Lộc