Thứ Ba, 24 tháng 11, 2020

 Thứ Bảy, 21 tháng 11, 2020

nguyễn đức tùng: khi còn bé tôi đọc sách
1.
Khi còn bé, tôi đọc sách. Tuổi thơ của tôi rơi vào buổi bình minh của miền Nam, một trong những thời kỳ phát triển tốt đẹp của văn hóa nghệ thuật dân tộc. Cuộc đời rộn ràng bắt đầu, học sinh, công nhân, công chức, tư chức, người đi chợ búa tấp nập trên đường, những cánh cửa mở ra, đóng lại, tiếng xe máy, tiếng chuông xe đạp leng keng, chuông nhà thờ, chuông chùa. Trường học xây lại, nhà ga hoạt động, cầu cống, quán xá nhộn nhịp, đời sống rộn ràng mở cửa khi tôi sinh ra, lớn lên. Môi trường ấy thích hợp cho một nền văn học tươi trẻ, lành mạnh, cho những cuốn sách thiếu nhi, tiểu thuyết, phim ảnh, sân khấu. Chiến tranh chống Pháp vừa kết thúc, hòa bình lập lại, mọi người muốn trở về với cuộc sống thanh bình, bắt tay làm lại. Người ta muốn viết sách, muốn đọc sách. Người ta muốn thí nghiệm giống lúa mới, trồng cây ăn quả, muốn học nướng bánh mì, tìm hiểu ý nghĩa của cuộc đời, đi chùa, đi nhà thờ, đến trường. Người ta muốn sinh đẻ và được sinh đẻ, muốn sống và muốn người khác được sống. Tinh thần của Tự lực văn đoàn, của Thơ mới, của văn chương tiền chiến tưởng đã chết trong thời kỳ kháng chiến nay hồi sinh mạnh mẽ. Trong một xóm quê hẻo lánh, ở nơi xa kinh đô nhất, nơi ánh sáng của ước mơ dân tộc chiếu rọi tới chỉ vừa le lói mà thôi, tôi ngồi đọc.
Sách vở do các anh chị tôi mang về, không biết từ đâu. Thị xã bé tí xíu mà có đến năm hiệu sách: Tùng Sơn, Lương Giang, Văn Hoá, Tao Đàn, Phú Long. Chúng tôi không có thư viện, chỉ có một phòng đọc sách báo, đọc tại chỗ. Nhưng những cuốn sách tôi say mê toàn là sách cấm. Một lần trong phòng đọc của ty thông tin Huế, trên đường Trần Hưng Đạo, thấy tôi đứng đọc cuốn Những người đau khổ của Dương Hà, cô quản thủ thư viện, tóc phi dê, mắt đen nhánh, đến bên ngăn lại và bảo, em còn nhỏ quá không nên đọc cuốn này. Năm nấy tôi mười ba tuổi. Nhưng tôi không có nhiều chọn lựa. Tôi đọc bất cứ cái gì rơi vào tay, lọt vào mắt, dù đó là những người đau khổ hay hạnh phúc. Theo mẹ tôi đi chợ, tôi đọc tên đường, bảng quảng cáo, tờ programme chiếu bóng, tiếng Việt, cả tiếng Pháp mà tôi không hiểu mấy, chỉ có chữ Hán là chịu. Thế mà khi thấy những tờ giấy có chữ Hán rơi trên đường, mẹ tôi đều nhặt lên, mang về nhà cho tôi. Sau này khi được phép lục lọi tủ sách của ba tôi, trước đó khóa kỹ vì ông đi dạy học ở xa, tôi đọc trong một năm tất tần tật từ Chiếc cáng xanh của Lưu Trọng Lư đến Những bàn tay bẩn của Jean Paul Sartre, từ Lan Hữu của Nhượng Tống đến Giông tố của Vũ Trọng Phụng. Năm mười hai tuổi tôi nhớ cảnh cô Mịch đi gánh lúa bị nghị Hách lôi vào xe hơi. Tôi đâm yêu cô Mịch nhưng tức giận với gã đàn ông thô bạo kia. Nếu có súng tôi đã giết hắn. Có lẽ vì thế mà những đứa trẻ thích đọc truyện hiệp sĩ và công chúa, thám tử và giai nhân. Duyên Anh làm tôi sửng sốt vì cả hai: tuổi nhỏ mơ mộng và du đãng anh hùng. Xóm quê của tôi có nhiều người thích đọc sách báo. Trong quán hớt tóc gần quốc lộ Một, tôi đọc trọn vẹn Thời nay, Phổ thông tạp chí, Đa hiệu của võ bị Đà lạt, trong nhà ông anh họ gần bến đò, tôi đọc Văn hóa ngày nay, Tuổi hoa, Giữ thơm quê mẹ, Lập trường, trong phòng đọc sách của tỉnh lỵ tôi đọc các nhật báo từ Sài Gòn, tờ Hương Quê với các truyện ngắn tuyệt hay của Bình Nguyên Lộc và Sơn Nam.
Tôi đoán rằng đó không phải là một phương cách giáo dục thích hợp cho thiếu nhi, khi để cho một đứa bé mười một tuổi biết đến tình yêu của Zhivago và Lara, mười hai tuổi biết Vết thương dậy thì, mười bốn tuổi ngưỡng mộ Tống Văn Bình với tài bắn súng như chớp xẹt, làm tình trong xe hơi như vũ bão. Biết làm sao?
Cuốn sách đầu tiên mà tôi đọc: Anh phải sống. Cuốn sách bất ngờ nhất mà tôi đọc: Thằng người gỗ Pinocchio. Cuốn sách đáng nhớ nhất: Thằng Thuộc con nhà nông. Cuốn sách buồn bã nhất: Chim hót trong lồng. Cuốn sách đáng yêu nhất: Tâm hồn cao thượng. Cuốn sách sâu thẳm nhất: Cõi người ta. Cuốn sách điên rồ nhất: Zorba người Hy lạp. Cuốn sách làm tôi bàng hoàng: Chùa đàn. Cuốn sách dở nhất mà tôi đọc: Bắt trẻ đồng xanh. Cuốn sách dũng cảm nhất: Đêm dài một đời.
Chắc còn thiếu. Thế Anh hùng xạ điêu nằm ở đâu? Những cuốn ấy tôi đọc trước năm mười sáu tuổi. Bọn trẻ cũng say mê tủ sách Hồng của Tự lực văn đoàn: Cây tre trăm đốt của Khái Hưng, Hạt ngọc của Thạch Lam, Con chim họa mi của Andersen, Hoàng Đạo dịch. Năm mười một tuổi, tôi được một người lính Mỹ trong khi đi hành quân tặng cho bộ truyện tranh tiếng Anh in đẹp trên giấy láng về Tarzan, con người hoang dã, tình yêu với Jane Porter, tôi chỉ nhìn hình đoán nghĩa. Năm sau, mười hai tuổi, tôi đọc Cuộc đời ly kỳ và gian nan của Rô Bin Sơn, Daniel DeFoe, Hoàng Đạo dịch. Một bản thứ hai, Lỗ Bình Sơn trên hoang đảo, không biết dịch giả. Năm mười bốn tuổi, khi bập bõm với Tô Đông Pha những phương trời viễn mộng của Tuệ Sỹ, tôi còn say mê Con chồn tinh quái của Linh Bảo. Nhà văn Thụy Điển Selma Lagerlof làm tôi ngơ ngẩn với chú bé Nils cỡ tuổi tôi, con ngỗng Akka dạy cho cậu bé lười nhác bài học làm người.
Các anh chị tôi, các thầy cô giáo mang lại cho tôi nhiều cơ hội. Không có những cuốn sách thời thơ ấu, mặc dù chúng không nhiều lắm, tôi đã không có tình yêu đối với văn chương. Những người giúp việc của mẹ tôi, gọi là trai bạn, kể chuyện. Người dân quê kể chuyện rất hay. Những câu chuyện về cuộc đời của họ thời Pháp thuộc, thời kháng chiến, đời sống trong làng xã, những tình duyên ngang trái, cứu chuộc, tội lỗi, đền ơn trả oán, người góa phụ, kẻ phản bội, êm đềm, giông tố. Tôi tin rằng những câu chuyện của họ là món quà, là sự ký thác. Khi mọi thứ qua rồi, chiến tranh tàn lụi, khi những giấc mơ của người dân bị phản bội, chúng ta không còn gì nữa, chỉ còn lại những câu chuyện kể. Tôi lớn lên ở một xứ loạn lạc, ngày quốc gia đêm cộng sản, ít ai biết rằng dưới bóng mát hàng tre, trong tiếng gù của chim cu bay đôi, trang sách tuổi nhỏ vẫn tỏa sáng tâm hồn những đứa trẻ nghèo. Tôi biết có nhiều người tiếp xúc với sách vở nhiều hơn tôi và cũng có những người khác lớn lên trong hoàn cảnh khó khăn, chẳng có sách mà đọc. Tôi chỉ là một đứa trẻ trung bình của một làng quê may mắn.
2.
Trong những thời kỳ khó khăn, dịch bệnh, thiên tai, tội ác, chúng ta đọc nhiều hơn, đi chậm lại, suy nghĩ nhiều hơn. Tôi đọc để biết người khác nghĩ về mọi chuyện như thế nào. Càng đọc tôi càng tin rằng một nền văn chương thực sự không phải để giúp chúng ta rời xa thực tế, giết thì giờ bằng những ảo tưởng, mà giúp chúng ta đối diện với hiện thực. Trong thời thanh bình viết và đọc là một hành vi văn hóa, trong thời gian thử thách, trước những thảm kịch như thiên tai, chiến tranh, viết và đọc là hành vi chính trị. Nghệ thuật không phải chỉ là những thông điệp mà còn là, và trước hết là, phương cách mà nhà văn gởi đi thông điệp ấy. Tôi đọc một truyện vì sức hấp dẫn của các câu văn mở đầu. Nếu sau những trang đầu tiên mà bạn còn chưa nhận ra cái bạn có trước mặt là gì thì bạn phải bỏ. Chỉ sau đó, sau sự thích thú ban đầu, thông điệp của cuốn sách mới được lắng nghe. Đôi khi sự kết thúc. Đôi khi một đoạn văn đâu đó ở giữa hai thứ ấy. Đọc truyện, bạn phải kiên nhẫn, chịu khó theo dõi, không phải trang viết nào cũng đầy kịch tính, bất ngờ. Nếu mọi chuyện đều bất ngờ thì chẳng có gì bất ngờ nữa. Khi còn trẻ tôi thích những tình tiết táo bạo, những khúc quanh, những cảnh ghê rợn, sự kết thúc choáng váng. Khi lớn lên tôi muốn những cuốn sách kể chuyện đầm thắm, hợp lý, ám ảnh người đọc sâu sắc vì những nỗi niềm u uẩn bên trong, sự thương tiếc, sự phẫn nộ, lòng hối hận, tình yêu non trẻ. Trong thời kỳ hỗn loạn như hiện nay, con người vẫn phải sống cuộc đời của mình. Tác phẩm văn học không mang họ trốn thoát cuộc đời, mà mang người đọc ngày một đến gần hơn niềm vui nỗi buồn nơi trần thế. Nhưng nếu mọi thứ đều có sẵn câu trả lời, chúng ta đã không đi tìm. Nếu mọi thứ đều được giải thích, nếu mọi chuyện đều xảy ra đúng như dự đoán, người xấu bị trừng phạt, người tốt được may mắn, nếu cuộc sống dễ dàng tiên đoán như thế, thì đó không phải là cuộc sống.
Những người thầy đầu tiên ảnh hưởng đến tôi: thầy Nguyễn Xuân Oanh lớp nhất dạy tôi đọc Tâm hồn cao thượng của Edmondo de Amicis, Hà Mai Anh dịch, Vô gia đình của Hector Malot. Cô Thu Cúc năm lớp bảy, giới thiệu cho tôi Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh. Thầy Hồ Thế Vĩnh, lớp tám, mang tôi đến với thế giới thơ Đinh Hùng, cả lớp được nghe trọn vẹn những băng đọc thơ từ chiếc máy dĩa tân kỳ thời ấy của ông. Lần đầu tôi biết rằng đọc không chỉ là đọc trong im lặng, một mình, mà còn đọc lớn lên, đọc trước đám đông, đọc cùng người khác như hành vi tập thể. Lớp chín, thầy Đỗ Tư Nhơn giới thiệu Chinh phụ ngâm và Truyện Kiều, Nguyễn Du. Từ Kiều, thế giới văn chương, nghệ thuật sử dụng tiếng Việt mở ra cánh cửa lớn, dẫn tôi đi. Khi đọc Thằng người gỗ, nhà văn Ý Collodi, do Bửu Kế dịch từ bản tiếng Anh, tôi hình dung một xứ sở khác, vĩ đại, bên bờ biển, bầu trời cao và xanh hơn bầu trời của làng quê tôi. Tôi mơ ước đến đó. Có một niềm vui kỳ lạ, làm giàu trí tưởng tượng của bạn, làm bạn thay đổi cái nhìn. Cuốn sách gây ra những rung động mãnh liệt, thứ chủ nghĩa lãng mạn tự nhiên. Tôi nghĩ một nền giáo dục quá chú trọng đến hiện thực, tập cho trẻ con lớp năm lớp sáu tiếp xúc quá sớm với một thứ ngôn ngữ khắc khổ, thậm chí khắc nghiệt, dù chúng có giá trị văn học lớn đến đâu, đúng đến đâu đi nữa, với không khí cay đắng và thù hận, khi trẻ lớn lên, chúng sẽ thiếu một tâm hồn thơ mộng cần thiết.
"Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi trời, có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: Đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ồ thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế thì có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này! A ha! Phải đấy hắn cứ thế mà chửi, hắn chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo? Mà có trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết."
(Chí Phèo, Nam Cao)
Có lẽ tôi muốn con tôi học một đoạn mở đầu khác, học thuộc lòng càng tốt:
“Trên đê Yên Phụ, một buổi chiều mùa hạ.
Nước sông Nhị Hà mới bắt đầu lên to, cuồn cuộn chảy, tưởng muốn lôi phăng cái cù lao ở giữa sông đi. Theo dòng nước đỏ lờ lờ, những thân cây, những cành khô trôi từ rừng về, nổi lềnh bềnh, như một dẫy thuyền nhỏ liên tiếp chạy thực nhanh tới một nơi không bờ không bến. Đứng trên đê, bác phó nề Thức đưa mắt trông theo những khúc gỗ ấy tỏ ra ý thèm muốn, rồi quay lại, đăm đăm nhìn vợ, hỏi thầm ý kiến. Người vợ, ngắm sông, ngắm trời, lắc đầu thở dài, nói:
- Gió to quá, mà đám mây đen kia ở chân giời đùn lên mau lắm. Mưa đến nơi mất, mình ạ!
Người chồng cũng thở dài, đi lững thững. Rồi bỗng đứng dừng lại, hỏi vợ:
- Mình đã thổi cơm chưa?
Vợ buồn rầu đáp:
- Đã. Nhưng chỉ đủ cơm cho hai con ăn bữa chiều hôm nay.”
(Anh Phải Sống, Khái Hưng)
Cả hai tác phẩm trên, của Nam Cao và Khái Hưng đều lớn, có giá trị, nhưng cách tiếp cận của chúng khác nhau. Hãy cho phép trẻ con được sống thơ mộng trước đã. Bạn đừng lo chúng không biết gì về cuộc sống hiện thực. Mà chắc gì truyện của Khái Hưng ít hiện thực hơn truyện của Nam Cao? Ngược lại, trẻ con ngày nay nhiều đứa khôn trước tuổi, đáo để, đánh mất quá sớm tuổi thơ của mình, khi chúng lớn lên sẽ thành người lớn giỏi ngụy biện cho tính ích kỷ. Con người ngày càng khôn ngoan và càng ít thông minh.
Tôi đọc tất cả sách vở có trong tay, tôi đọc lớn lên các bài thơ và mẩu đối thoại trong tiểu thuyết. Tôi muốn lắng nghe giọng đọc của mình, và tiếng nói của các nhân vật, tiếng nói của tác giả. Đọc văn xuôi tôi yêu lối viết của nhà văn nhiều hơn là cốt truyện trong đó. Tôi yêu các đối thoại dí dỏm và mau lẹ của Duyên Anh, Nguyên Hồng. Tôi đọc đi đọc lại Hoàng tử bé, Cõi người ta, Antoine de Saint- Exupéry, Bùi Giáng dịch, vì thích những câu văn đẹp đến nghẹt thở. Cả hai đều có khung cảnh sa mạc, có máy bay bị hỏng. Cõi người ta gần như một tự truyện của tác giả. Ý thức trách nhiệm, tình bạn, sự sống và cái chết, những phẩm chất cao thượng làm nên ý nghĩa của đời người. Sau này khi ra hải ngoại, trong nhiều năm tôi tưởng mình đã quên tiếng Việt, nhưng rồi khi người ta lớn thêm nữa, những gì bạn đọc từ thời thơ ấu sẽ quay trở lại.
Chúng trở lại như những ý nghĩa.
3.
Lên lớp mười, trung học đệ nhị cấp gồm ba ban ABC, tôi chọn ban B, học toán, môn sở thích, từ đó xa dần văn học. Nhiều năm sau khi tôi trở lại, những cuốn sách vẫn chờ tôi ở đó, nhưng thế giới đã thay đổi. Người Việt đã già đi, mờ nhạt, tan rã, trôi dạt. Gần đây tôi có những dịp đọc lại một số sách thiếu nhi, như Dế mèn phiêu lưu ký khi tôi phỏng vấn nhà văn Tô Hoài năm 2011, hai lần phỏng vấn, một năm trước khi ông mất; đọc Chim hót trong lồng, sau khi được tin Nhật Tiến qua đời; đọc Pinocchio khi tôi ngồi chờ chuyến bay ở phi trường La Mã; đọc lại Tâm hồn cao thượng, trong bản tiếng Anh “The heart of a boy”, khi mua tặng cuốn sách ấy cho con trai. Ngạc nhiên thay tôi vẫn yêu mến chúng như vậy, không đổi. Có điều tôi đọc kỹ hơn, quan tâm đến lối văn, nhận ra một vài khuyết điểm của câu văn, vài điểm khó thuyết phục của cốt truyện, lối viết hơi cũ của các tác giả so với bây giờ; tôi chú ý nhiều hơn đến các chi tiết hợp lý và không hợp lý; tóm lại tôi đọc như một người viết. So với thời nhỏ, tôi có khả năng phân biệt và nhận ra mình yêu thích hơn những câu văn ngắn, nhiều hành động, hoặc những câu văn dài nhưng không khiến người ta mệt. Nhiều cây bút ngày nay, đáng ngạc nhiên, hình như không biết viết; họ viết những câu văn dài ngoằng, buồn tẻ, khiến người đọc rất mệt. Nhà văn có tài thường chọn hai cách sau đây, hoặc viết câu ngắn, linh hoạt, rắn rỏi, hoặc viết câu rất dài nhưng chia làm nhiều đoạn nhỏ, với các diễn tiến hành động hay suy nghĩ khác nhau liên tiếp, khiến người đọc không mệt. Lối thứ nhất hợp với khuynh hướng tối thiểu trong thơ, loại thứ hai, khuynh hướng tối đa. Lối nào ra lối đó. Văn học không phải là tấm gương mà là cách tổ chức các chi tiết. Chính nhờ cách tổ chức mà cuộc đời một nhân vật được khắc họa.
Nhiều người không tin rằng văn học có thể cải tạo thế giới. Tôi không biết. Nhưng những trang sách mà tôi đọc hồi nhỏ luôn ở lại với tôi. Tôi nổi hứng tự đồng hóa mình với họ, với Enrico, với Dế mèn, với Côn, Nils, đôi khi thấy mình rơi xuống cái giếng như Đoàn Dự, hay Trương Vô Kỵ cũng rơi xuống giếng thì phải. Tôi gắng học ở họ sự thật thà, tính gan dạ, nhưng học được bao nhiêu thì tôi không biết, hay học rồi mà quên? Cũng có người không học được điều gì cả, bất chấp kiến thức rộng rãi và sự sắc sảo của chính họ, vẫn lớn lên như kẻ tầm thường, tiêm nhiễm các thành kiến hẹp hòi, ngôn ngữ điêu trá. Đó là những độc giả không may mắn của văn học.
Có người tin rằng văn học thiếu nhi là viết về thời thơ ấu đã qua của chúng ta. Nhưng tôi nghĩ văn học thiếu nhi trước hết là viết cho tuổi nhỏ, hơn là viết về tuổi nhỏ, và người đọc trước hết là trẻ con và lớp tuổi mới lớn. Có hai loại: loại dành cho lứa tuổi tiểu học, và loại dành cho trẻ mới lớn (adolescent), từ mười một đến mười sáu, mười bảy. Lứa tuổi ấy rất dễ nhớ lâu. Tôi có thói quen học thuộc đoạn văn mình yêu thích. Dù nay chép lại, tôi phải dùng bản in điện tử, vì không tin vào trí nhớ, tôi vẫn có thể thuộc nhiều đoạn. Có lẽ đây là ảnh hưởng của lối dạy “học thuộc lòng” mà ngày nay nghe nói nhà trường đã bỏ vì “làm khổ học sinh”? Dịch giả Bửu Kế, mở đầu cuốn Pinocchio mà ông dịch là “Thằng người gỗ” bằng bức thư cho nhân vật của mình:
“Huế, ngày...
Em Pinocchio,
Lúc bố Geppetto dùng mảnh gỗ chạm trổ em, bố có ý đem em đi khắp thế giới biểu diễn lấy tiền mua rượu uống. Cái ý định ấy theo thời gian biến thành sự thật. Em chu du khắp nơi, nói nhiều thứ tiếng và ngày nay em nói thêm một thứ tiếng Việt Nam. Tôi gặp em trong tủ kính một nhà hàng sách một buổi chiều tà. Hai vành tai nhỏ xíu, cái mũi dài thòng khiến tôi buồn cười. Hôm ấy tôi say mê về cuộc đời của em, mãi đến gà gáy sáng mới đi ngủ.”
Ba mươi năm sau, khi về vùng Tuscany ở trung Ý, với thủ phủ Florence, tôi được biết Pinocchio cũng nổi tiếng ở đó. Pino tiếng Ý là gỗ tùng còn occhio là con mắt. Tên của Geppetto, người thợ mộc làm ra chú bé, là từ Geppo, cũng là ceppo, nghĩa là cây gỗ. Tôi còn nhớ cảm giác thú vị của mình về cái ngày thằng bé ra đời. Tôi cảm động về những đức tính của nó, trung thực, siêng năng làm việc, tôi nhớ những lầm lỗi của nó. Trong khi Chim hót trong lồng của Nhật Tiến làm tôi bâng khuâng, dù lúc đầu hơi khó hiểu:
“Má ơi má năm mới con và Gigi chúc má mau khỏe mạnh về với chúng con. Con sẽ đến đón má ra khỏi căn buồng vôi trắng. Con sẽ đỡ má trên những bậc cầu thang bằng gỗ. Cửa nhà ta sẽ không khóa như bây giờ nữa, con sẽ mở cửa sổ để nắng mùa xuân sưởi ấm cái giường của má. Lọ hoa để mốc trên bàn sẽ được cắm hoa màu đỏ, bàn sẽ trải khăn xanh. Má cứ ngồi dựa lưng vào tường mà dưỡng sức.
Con sẽ đi đun nước lá thơm cho má gội đầu.”
Đó là ước mơ của nhân loại.
Những ngày cuối cùng của miền Nam, khi đã lớn, tôi vẫn say mê Những giọt mực: “Đêm thật khuya, buổi sinh hoạt của đồ vật trong phòng bắt đầu như thường lệ. Bao giờ họ cũng tán dóc với nhau về chuyện xảy ra ban ngày, về chú bé chủ nhân của đồ vật. Chị tranh trên tường hồi nãy ít nói. Trước kia chẳng ngày nào chị ta quên khoe sắc đẹp của mình. Ông bàn lên tiếng trước, ông càu nhàu về vụ hôm nay chú bé làm đổ mực lên mặt ông.” Chỉ đọc thế thôi, Lê Tất Điều đã làm tôi cuốn hút vào thế giới tưởng tượng của ông. Đó là nhà văn đầu tiên dạy tôi về cách quan sát đồ vật, nghĩ về chúng, yêu chúng. Dế mèn phiêu lưu ký là cuốn sách được dạy ở lớp bảy. Sau chiến tranh, tôi trở về làng, cánh đồng cũ, bạn bè không còn ai, tôi đi một mình, nhớ chúng, đứa chết trong chiến tranh, đứa bỏ quê chạy vào Nam, đứa ra nước ngoài. Tôi nghe tiếng hót dưới chân, tôi đứng lại. Tôi nhớ ra người bạn thời thơ ấu, nhớ đến cuốn tiểu thuyết. Tôi thấy mình không cô độc trên cõi đời này. Tôi có hai người bạn: cánh đồng cỏ xưa và một nền văn học đã bị bôi xóa.
Một thời để đọc, một thời để chết. Tôi yêu sách, bất kể chúng là văn học hay khoa học. Cách trình bày không những đẹp mà phải chắc chắn, có hệ thống, có phong cách. Nên mua sách, không nên mượn. Những người yêu sách tạo ra một cộng đồng độc giả, là những người xúc động vì chữ viết, vì những giá trị được truyền qua các thế hệ, sự vui chơi, lòng nhân ái. Con người tạo ra ngôn ngữ mỗi ngày, mang cho chúng ý nghĩa mới mỗi ngày. Ngôn ngữ không chỉ phản ảnh đời sống, văn hóa, mà còn phản ánh lập trường chính trị, những quan điểm cốt lõi về đời sống. Những người đọc và những người viết tạo ra một cộng đồng văn hóa lớn, có thể gọi họ là một tầng lớp tinh hoa của xã hội, thời nào cũng thế. Nhiều người ưa sách mỏng, dễ cầm, tôi thích những cuốn dày, bìa cứng, nặng kịch, tôi ôm lấy chúng vào lòng, như ôm một người bạn nhỏ tuổi. Ngôn ngữ không phải chỉ là hình thức diễn đạt các hình tượng. Ngôn ngữ chính là tư tưởng. Một người ăn nói ấp úng, nói ngọng, phát âm sai, thì khó có tư duy sáng rõ. Một đứa trẻ lớn lên không đọc sách văn chương, nhất là sách thiếu nhi, sẽ đánh mất nhiều khả năng: khả năng suy nghĩ, khả năng giao tiếp, đức tính hy sinh, sự mơ mộng, trí tưởng tượng. Văn học thiếu nhi giúp cho trẻ con tưởng tượng; không có trí tưởng tượng chúng không lớn lên được.
Năm mười một tuổi tôi gặp Thằng thuộc con nhà nông của Hồ Hữu Tường, hồi ký, viết về thời mới lớn của tác giả. Cần phân biệt hai loại: hồi ký văn học, có thể gọi là tự truyện, creative memoir, và hồi ký thông thường, ví dụ của các chính khách, có khi nhờ người khác viết hộ. Loại thứ hai, rất hiếm mới có một cuốn hay như Một cơn gió bụi của Trần Trọng Kim. Muốn biết Hồ Hữu Tường không thể không đọc Thằng thuộc con nhà nông. Cùng với Tuấn, chàng trai nước Việt của Nguyễn Vỹ, và Lan Hữu của Nhượng Tống, bản in cũ mà ba tôi giữ được, đó là ba cuốn tự truyện ám ảnh tôi nhiều nhất trong thời gian dài. Nhiều tiểu thuyết tôi đọc được là nhờ theo dõi báo, như Xóm cầu mới và Tàu ngựa cũ trên Văn hóa ngày nay, Ung thư của Thanh Tâm Tuyền và Khu rừng lau của Doãn Quốc Sỹ trên Văn, Những luống hoa cải vàng của Cung Tích Biền trên Đời của Chu Tử. Tuấn là một nhân vật tiêu biểu cho chàng trai sinh trưởng đầu thế kỷ hai mươi, lớn lên trong một xã hội vẫn còn nhiều phong tục cũ kỹ, giao thoa với nền văn hóa mới mà người Pháp mang lại.
Tôi chia sẻ những cuốn sách với bạn, khi có dịp, có đứa học lên trung học, có đứa thi đệ thất hỏng, ở lại chờ thi năm sau, có đứa nghỉ hẳn ở nhà chăn trâu cắt cỏ. Những đứa trẻ làng quê lấm lem bụi đất vẫn luyến tiếc nhìn những gáy sách, thèm đọc chúng. Chúng tôi biết nhiều hơn chúng tôi được phép. Chúng tôi biết ít hơn những điều lẽ ra phải biết. Thay chỗ cho những cuốn sách võ hiệp thời kỳ đầu là sách về đệ nhị thế chiến, các cuộc hải chiến không chiến lừng danh. Mười lăm tuổi, tôi bắt đầu đọc về chiến tranh, biết đến Võ Phiến, Phan Nhật Nam, Nhã Ca, Thế Uyên, Y Uyên. Chúng tôi cầu nguyện cho những phép lạ, nhưng phép lạ không xảy ra. Chiến tranh của du kích làm đường sá khó đi lại, không khí có phần căng thẳng hơn, nhưng chưa ảnh hưởng đến sách vở của tôi, trường lớp của tôi. Đó là một thế giới được kiến tạo kỳ lạ, mỏng mảnh như căn nhà kính dễ vỡ, đẹp như ảo tưởng, tốt đẹp như không có thực, trong một thế giới hoảng loạn máu lửa, nhưng chúng lại có thực, thế giới sách vở của tôi. Chúng có thực cho đến khi mọi thứ sụp đổ.
Khi đạn pháo kích vang rền trong không gian, khi xác những người lính trong quan tài phủ cờ trở về trên đường, khi xác những người du kích cháy đen nằm phơi trên hàng rào vì trúng mìn Claymor, khi trực thăng phóng hỏa tiễn vào những xóm ven rừng, cho đến khi ấy tuổi thơ của tôi chấm dứt. Tôi đọc nhiều nhưng không phải là con mọt sách. Tôi cũng ham chơi, sẵn sàng bỏ sách xuống để theo chúng bạn. Một lần sau khi đọc Thiếu lâm trường hận, bắt chước một nhân vật, một bọn chúng tôi nhảy từ mái nhà xuống, tôi bị trật khớp mắt cá chân phải, phải bó bột. Sách vở tặng cho bạn trí tưởng tượng. Đó là một cảm xúc khác lạ, một kinh nghiệm bạn không thể có trong đời, sự cay đắng tưởng tượng, lòng can trường tưởng tượng. Văn học dạy tôi căm ghét các chế độ chống lại con người. Khi đọc xong một cuốn sách tôi đi ra đường với cảm xúc dị thường, như thể tôi sở hữu một viên ngọc trong túi áo, niềm hi vọng mà không người nào có được, sự thấu hiểu các bí mật, một sức mạnh ngấm ngầm chỉ tôi mới biết. Tôi mang điều ấy đi giữa những người khác, im lặng, khiêm tốn, không chia sẻ với ai, lòng kiêu hãnh ngấm ngầm. Văn học làm cho một đứa bé thấy cuộc đời thật đẹp, thấy rằng những gian lao khổ sở sắp đến nó có thể vượt qua được, những tình yêu nó có thể chinh phục, những người bạn tốt bụng nó sẽ gặp sau mỗi khúc quanh. Văn học dạy tôi về những điều tôi đã thấy và chưa thấy trong đời, tập cho tôi nhìn thấy vết thương chảy máu của người lính, sự hy sinh của họ trên chiến trường, nhìn thấy con người khốn khổ, trải qua trận chiến anh hùng, cuộc đắm tàu trên biển, nhìn thấy những đoàn người lũ lượt đi vào phòng hơi ngạt Đức quốc xã, im lặng không chống lại, bay theo đàn ngỗng trời, nhìn thấy ghế bàn của Lê Tất Điều trò chuyện với nhau, nghe thấy giọng nói của Churchill trong đêm tối nước Anh, nhìn thấy máy bay của Lâm Bưu rơi trên sa mạc, cuộc đấu tố trong cải cách ruộng đất, tiếng la hét của hồng vệ binh, nhìn thấy ngọn lửa trong lò sưởi đêm đông của Dũng và Loan. Sách vở dạy tôi sống lại, tiếp nối cuộc đời của những nhân vật, những người không được sống như chúng ta, không được may mắn như chúng ta.
Tôi nhận ra công việc bí ẩn của văn học. Không phải cốt truyện mặc dù cốt truyện quan trọng, không phải nhân vật mặc dù nhân vật là linh hồn, không phải lời văn, mặc dù lời văn là sức quyến rũ đầu tiên của tiểu thuyết. Tôi cho rằng đó là sự tham dự của người đọc vào câu chuyện kể. Không có sự tham dự gần như vô thức ấy, không một tác phẩm nào có thể thành công. Ngay từ chương đầu tiên, tác giả phải đưa người đọc vào không khí của truyện, đặt họ ngồi giữa các nhân vật, như ngồi giữa Singer và Antonapoulos, giữa Pasha và Lara, giữa Mai và lão bộc. Tác giả phải làm cho người đọc muốn chạy theo Thằng người gỗ trên bãi biển, hóa thân thành Zhivago. Người đọc phải khóc với bé Phượng khi đứng trước quan tài của mẹ nó. Họ phải phá lên cười cùng với chú dế mèn tinh nghịch. Nếu không có sự dấn thân vô thức ấy của người đọc, không có một điều gì của văn học có thể tác động đến họ.
(Còn tiếp một kỳ)

Bình luận

Không có nhận xét nào: