Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2013

Nguyễn Hưng Quốc - Tình hình và xu hướng chính trị tại Việt Nam hiện nay


Nguyễn Hưng Quốc


Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (trái)
và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.

Theo dõi tình hình chính trị Việt Nam, hầu như giới quan sát, từ người Việt đến người ngoại quốc, đều đi đến kết luận giống nhau: Chưa bao giờ Việt Nam yếu như hiện nay.

Tuy nhiên, nói đến cái yếu của Việt Nam, phần lớn đều tập trung vào quan hệ đối ngoại, chủ yếu giữa Việt Nam và Trung Quốc. Có thể nói, ở châu Á, không có nước nào bị Trung Quốc “ăn hiếp” nhiều như Việt Nam. Với Nhật Bản hay Philippines, họ chỉ dòm ngó một hai hòn đảo; với Việt Nam, họ dòm ngó cả chùm đảo và cả một vùng biển mênh mông. Với các nước khác, lâu lâu họ đưa tàu đánh cá hay tàu hải giám lượn qua lượn lại vài vòng thị uy; với Việt Nam, họ tung tàu đánh cá và tàu hải giám ào ạt như vào chỗ không người, hơn nữa, còn bắt bớ, thậm chí, hãm hại cả ngư dân Việt Nam. Cũng có thể nói, trước sự đe dọa của Trung Quốc, không có nước nào có phản ứng nhu nhược như Việt Nam. Nhật Bản dám dọa đánh chìm tàu Trung Quốc, Philippines đem Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế, còn Việt Nam? Ngay cả một lời lên án, họ cũng không dám nói; và khi, trước áp lực của dân chúng, phải nói, thì chỉ nói một cách… thì thầm. Vừa lên án vừa run lẩy bẩy.

Tuy nhiên, cái yếu của Việt Nam còn thể hiện ở nhiều lãnh vực khác nữa. Phân tích những cái yếu ấy, chúng ta dễ thấy xu hướng phát triển của tình hình chính trị tại Việt Nam hiện nay.

Trước hết là lãnh đạo yếu.

Nói đến lãnh đạo chủ yếu là nói đến đảng Cộng sản, và nói đến “yếu” là nói đến tương quan quyền lực với các thiết chế khác. Công thức phân quyền ở Việt Nam, ai cũng biết, là “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý”. Suốt hơn nửa thế kỷ, hầu như mọi quyền lực đều nằm trong tay đảng. Còn nhà nước, như chính lời thú nhận của Phạm Văn Đồng, người làm Thủ tướng lâu nhất ở Việt Nam (1955-1987), với những người quen: Chưa có ai làm Thủ tướng lâu mà bất lực như ông. Ông không những bị lép vế trước Lê Duẩn, Tổng Bí thư, mà còn bị lép vế cả trước Lê Đức Thọ, Trưởng ban Tổ chức Trung ương đảng. Là Thủ tướng, Phạm Văn Đồng hoàn toàn không có quyền hạn gì trong việc chọn lựa, bổ nhiệm hoặc cách chức các Bộ trưởng hay Thứ trưởng, thậm chí, các giám đốc Sở ở địa phương. Quyền lực tập trung hết trong tay giới lãnh đạo đảng, chủ yếu là Tổng Bí thư. Tuy nhiên, sau Lê Duẩn, rõ ràng quyền lực của Tổng Bí thư cứ giảm dần. Quyền lực của các Tổng Bí thư kế tiếp Lê Duẩn, từ Trường Chinh (14/7/1986-18/12/1986) đến Nguyễn Văn Linh (1986-1991) và Đỗ Mười (1991-1997), không thể so sánh được với Lê Duẩn. Tuy nhiên, dù vậy, họ vẫn giống như những ông vua. Yếu thế, nhưng vẫn là vua. Chỉ từ Lê Khả Phiêu (1997-2001) trở đi, quyền lực của Tổng Bí thư mới bắt đầu mờ nhạt. Hơn nữa, càng lúc càng mờ nhạt. Nông Đức Mạnh (2001-2011) mờ nhạt hơn Lê Khả Phiêu. Đến nay, mờ nhạt nhất là Nguyễn Phú Trọng, người được lên làm Tổng Bí thư từ ngày 19 tháng 1 năm 2011.

Vai trò mờ nhạt của Nguyễn Phú Trọng thể hiện rõ nhất là qua hai lần thua cuộc trước Nguyễn Tấn Dũng. Lần thứ nhất, ở hội nghị Trung ương 6 vào tháng 10 năm 2012, khi Nguyễn Phú Trọng liên kết với Trương Tấn Sang tấn công Nguyễn Tấn Dũng - người được gọi là “đồng chí X” -, nhưng cuối cùng, cả hai đều thất bại. Lần thứ hai, mới đây, ở hội nghị Trung ương 7 vào đầu tháng 5/2013, Nguyễn Phú Trọng lại thất bại trước Nguyễn Tấn Dũng lần nữa khi đề nghị đưa Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ vào Bộ Chính trị nhưng bị Trung ương đảng bác bỏ. Thế vào đó, Nguyễn Thiện Nhân và Nguyễn Thị Kim Ngân được bầu. Cả hai đều là người của Nguyễn Tấn Dũng.

Có thể nói, trong lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam, chưa bao giờ có một Tổng Bí thư nào lại thua cuộc một cách thê thảm và nhục nhã đến như vậy.

Nhưng việc Tổng Bí thư và cùng với ông, cả cái Đảng do ông lãnh đạo yếu thế và việc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chứng tỏ quyền lực mạnh mẽ của mình như vậy có làm cho chính phủ mạnh hơn không?

Không.

Thủ tướng mạnh. Nhưng chính phủ vẫn yếu. Nguyễn Tấn Dũng mạnh đủ để thoát các đòn tấn công hiểm hóc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nhà nước Trương Tấn Sang, nhưng chính phủ do ông cầm đầu, trên nguyên tắc, vẫn phải được lãnh đạo bởi đảng. Các chính sách lớn vẫn do đảng quyết định.

Như vậy, ở đây, chúng ta thấy một nghịch lý: Người có chức năng lãnh đạo thì yếu; còn người mạnh lại không thể lãnh đạo. Hậu quả là ở Việt Nam hiện nay, giới cầm quyền, từ đảng đến chính phủ, chỉ quản lý (management) chứ không hề có lãnh đạo (leadership). Sự khác biệt căn bản giữa quản lý và lãnh đạo là với quản lý, người ta chỉ làm theo mệnh lệnh và chỉ nhắm tới những mục tiêu ngắn hạn; nhưng khi không có lãnh đạo, người ta vừa không có tầm nhìn xa lại vừa không có mệnh lệnh cụ thể để thực hiện. Một nền quản lý thiếu lãnh đạo bao giờ cũng vừa thiển cận vừa lúng túng, vá víu và đầy mâu thuẫn. Chúng ta có thể thấy rõ những điều đó qua các chính sách và cung cách làm việc của nhà cầm quyền Việt Nam những năm gần đây. Rõ nhất là qua cuộc thảo luận về thay đổi Hiến pháp do chính họ đề xướng. Thoạt đầu, bảo không có vùng cấm trong thảo luận; sau, lại lên án kịch liệt những người kiến nghị. Thoạt đầu, hứa hẹn như một sự thay đổi lớn lao; sau, cứ thu hẹp dần lại. Thoạt đầu, định thay đổi cả tên nước; sau, lại loại bỏ ý định ấy, v.v.. Nhưng nguy hiểm nhất là thái độ lúng ta lúng túng của họ trong việc đấu tranh với Trung Quốc để bảo vệ độc lập và chủ quyền lãnh thổ. Ngoài vài lời thề nguyền là sẽ không bán nước, cho đến nay, vẫn không có ai trong giới lãnh đạo phác họa được một chiến lược rõ ràng, chưa nói đến việc có hiệu quả hay không. Một chút rõ ràng cũng không có.

Đảng lãnh đạo yếu, chính phủ cũng yếu, hậu quả tất nhiên là đất nước yếu theo. Tất cả những sự nhu nhược được đề cập ở phần đầu bài viết này đều là hậu quả của hai cái yếu ấy. Ngư dân Việt Nam đi đánh cá ngoài biển cả bị “tàu lạ” đâm chìm, bắt bớ hay giết chết, không có ai can thiệp. Dân chúng hàng ngày phải ăn uống hoặc tiêu dùng những thứ độc hại được nhập cảng chính thức hay qua các con đường không chính thức không hề được ai bảo vệ. Kinh tế ngày càng kiệt quệ, gánh nặng nợ nần trên đầu người dân càng ngày càng chồng chất, không có ai quan tâm. Những người có lòng với đất nước đứng lên chống lại Trung Quốc bị đối xử như tội phạm. Mở các trang báo ngoại quốc, mỗi khi thấy tin tức về Việt Nam, đoán mười lần đến chín lần đúng: tin xấu. Nếu không phải tham nhũng thì là trấn áp.

Đảng yếu, chính phủ cũng yếu. Vậy thì ai mạnh?

Thứ nhất, các phe phái mạnh.

Thật ra, đảng Cộng sản lúc nào cũng có nạn phe phái. Trong hồi ký của mình, Hoàng Tùng, nguyên Bí thư Ban chấp hành Trung ương đảng và Tổng biên tập báo Nhân Dân, giám đốc nhà xuất bản Sự Thật, kể, lúc Hồ Chí Minh còn sống và ngay cả trước mặt Hồ Chí Minh, các thành viên trong Bộ Chính trị cũng không thèm nói chuyện với nhau. Hồ Chí Minh khuyên mấy cũng không được. Nhưng, dù vậy, những sự xung khắc ấy chỉ dừng lại ở phạm vi cá nhân. Không có phe hay nhóm nào dám công khai chống lại phe Lê Duẩn và Lê Đức Thọ. Thành ra, Lê Duẩn và dưới bóng Lê Duẩn, Lê Đức Thọ tha hồ tác oai tác quái. Sau này, các phe phái nổi lên rõ hơn, nhưng không có lúc nào các phe phái lại tấn công nhau một cách công khai như bây giờ. Trước, nếu tranh chấp, hầu như chỉ dừng lại trong phạm vi mấy người trong Bộ Chính trị với nhau; bây giờ, chúng bày ra trước Trung ương đảng gồm cả gần 200 người; hơn nữa, còn tràn ra cả trước quần chúng, dù được ngụy trang dưới mật danh “đồng chí X”.

Thứ hai, vai trò của các nhóm lợi ích. Cần nói ngay, ở nước nào cũng có các nhóm lợi ích luôn tìm cách ảnh hưởng đến các chính sách của nhà nước. Ở các quốc gia dân chủ, các nhóm lợi ích ấy có thể là các nhà tài phiệt, các công đoàn, các tổ chức xã hội dân sự, các hội nghề nghiệp, v.v.. Các nhóm lợi ích ấy thường hoạt động công khai, một cách trực tiếp, dưới hình thức kiến nghị hoặc thậm chí, đình công và biểu tình, hoặc qua trung gian các cơ quan lobby chính thức, chuyên đi ngả tắt. Ở Việt Nam, trước đây, ngay cả sự hiện diện của cái gọi là “nhóm lợi ích” như thế cũng không thể có, thậm chí, không thể tưởng tượng được. Thế nhưng gần đây, các nhóm lợi ích ấy lại phát triển rất mạnh và khuynh đảo cả tình hình chính trị Việt Nam.

Theo Trần Kinh Nghị, chiến thắng của Nguyễn Tấn Dũng đối với Nguyễn Phú Trọng trong hai kỳ hội nghị 6 và 7 của Trung ương đảng vừa qua chính là chiến thắng của nhóm lợi ích đối với nhóm bảo thủ. Mới đây, trong bài “Đổi luật chơi trong đảng”, nhà bình luận chính trị Ngô Nhân Dụng cũng có quan niệm tương tự khi cho lý do chính khiến Nguyễn Tấn Dũng chiến thắng liên tiếp là nhờ biết sử dụng một thứ luật chơi mới: dựa trên tiền.

Thường, để cai trị, người ta sử dụng một trong hai, hoặc cả hai yếu tố: quyền và tiền. Quyền để khai thác lòng sợ hãi; tiền để kích thích lòng tham. Trước, người ta chỉ dùng quyền; bây giờ, người ta dùng cả quyền lẫn tiền. Theo Ngô Nhân Dụng:
“Từ khi làm thủ tướng năm 2006, […] Nguyễn Tấn Dũng tập trung quyền điều động các xí nghiệp quốc doanh vào phủ thủ tướng, thay vì chia quyền cho các “bộ chủ quản” theo lối cũ. Từ đó, người đóng vai thủ tướng tạo cơ hội kiếm tiền cho tay chân của mình; phân phát cơ hội kiếm tiền để mua lòng trung thành của đồng đảng. Các ủy viên Trung Ương Ðảng được chia chỗ trong Hội Ðồng Quản Trị của các doanh nghiệp nhà nước. Các chương trình kinh tế đều nhằm tạo cơ hội kiếm tiền cho những thủ túc chứng tỏ lòng trung thành. Khi người dân Việt Nam nhận thấy cả guồng máy cai trị là một mạng lưới tham nhũng chằng chịt liên kết với nhau, người cầm đầu mạng lưới đó là ông thủ tướng.”

Như vậy, cái mà Trần Kinh Nghị gọi là nhóm lợi ích ấy chủ yếu là những kẻ vừa có quyền vừa có tiền. Sức mạnh của Nguyễn Tấn Dũng so với Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang chính là sức mạnh của nhóm lợi ích vừa có quyền vừa có tiền ấy.

Sự thao túng của nhóm lợi ích ấy dẫn đến hai hệ quả:

Thứ nhất, nó tạo ra một vẻ dân chủ giả, thường được gọi là dân chủ trong nội bộ đảng (intra-Party democracy). Bộ Chính trị đề nghị kỷ luật Thủ tướng, Trung ương đảng bác bỏ: Bộ Chính trị chịu thua. Tổng Bí thư đích thân đề cử Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ vào Bộ Chính trị, Trung ương đảng bác bỏ: Tổng Bí thư chịu thua. Giới quan sát chính trị quốc tế, ở xa, dễ ngỡ đó là dân chủ. Nhưng không phải. Một là, thứ dân chủ nội bộ ấy không biến thành dân chủ xã hội (social democracy). Hai là, nó chỉ là cuộc đấu đá quyền lực trong nội bộ. Chứ không phải là dân chủ.

Thứ hai, sự thắng thế của các nhóm lợi ích vừa có quyền vừa có tiền ấy biến đảng Cộng sản thành một đám mafia không những khuynh loát chính trị mà còn vét kiệt hết tài nguyên của đất nước và tài sản của dân chúng, ngay cả của những người dân chưa ra đời (với số nợ khổng lồ nó tạo ra!).

Điều đáng chú ý là tất cả các hiện tượng trên, từ chuyện đảng và chính phủ yếu đến chuyện phe phái và các nhóm lợi ích mạnh đều cũng xuất hiện ở Trung Quốc. Trong bài “The end of the CCP’s resilient authoritarianism? A tripartite assessment of shifting power in China” đăng trên tạp chí The China Quarterly năm 2012, Cheng Li cũng phân tích các hiện tượng tương tự tại Trung Quốc. Chỉ có hai sự khác biệt lớn. Thứ nhất, ở mức độ: Cũng yếu, nhưng cái yếu của đảng và chính phủ Việt Nam ở mức trầm trọng hơn hẳn ở Trung Quốc. Ở Trung Quốc, quyền hạn của Chủ tịch đảng chưa bao giờ bị thách thức một cách nghiêm trọng như ở Việt Nam. Quyền lực của Tập Cận Bình cũng như của Hồ Cẩm Đào chưa bao giờ lớn bằng Mao Trạch Đông hay Đặng Tiểu Bình nhưng dù sao vẫn nghiêng trời lệch đất; cả Trung ương đảng cũng không dám chống lại. Thứ hai, theo Cheng Li, nhiều nhà phân tích chiến lược tin tưởng: đảng Cộng sản Trung Quốc có thể yếu và càng ngày càng yếu, nhưng đất nước Trung Quốc thì vẫn mạnh.

Còn Việt Nam?

Chính cái mạnh không cưỡng nổi của Trung Quốc là một tai họa cho Việt Nam. Việt Nam càng yếu, cái họa ấy càng lớn.

Những bóng ma cộng sản

 

     Những âm hồn tàn bạo đụt khoét da thịt người,
    Máu đã cạn nguồn rồi không chảy nữa.
    Thân tả tơi rong ruổi bốn phương trời,
    Tìm thiên đường trong cõi đời bịnh hoạn.
    Con người mới mang linh hồn cộng sản,
    Tư tưởng toàn trị hoàng đế lên ngôi,
    Phong kiến trở lại giăng tay gọi mời.
    Trần ích tắc,Lê chiêu Thống rạng ngời.
    "Lê nin,Lê duẩn,Hồ Chí Minh vạn tuế"
    Những linh hồn không đầu thai thoát kiếp,
    Bay phất phơ chiêu hồn kẻ u mê.
    Xã hội định hướng kiểu vua hề,
    Chàng Charllot Chaplin cười ngạo nghễ.
    Tư bản đỏ nối thêm đuôi rạng rỡ;
    Dân chủ cộng nô,kinh tế thị trường,
    Vẫn khua vang chiến tích bạo tàn,
    Cướp nhà,cướp của bán Nước cầu vinh,
    Cùng thay danh hiệu quỷ dữ đổi hình,
    (Việt Nam dân chủ cộng hoà toàn trị !).

                                           Nguyễn Lộc

Nguyễn Hưng Quốc - ‘Khựa’ và ‘Đi chết đi’

Nguyễn Hưng Quốc


Hai biểu ngữ được viết bằng máu trên tấm vải trắng:
“Đi chết đi ĐCS VN bán nước” và “Tàu khựa cút khỏi Biển Đông” (ảnh: Danlambao) 

Nguyễn Phương Uyên bị kết án sáu năm tù giam và ba năm quản chế chỉ vì “tội” tuyên truyền chống lại Trung Quốc và nhà nước Việt Nam. Bằng chứng là một số truyền đơn, và quan trọng nhất, hai biểu ngữ được viết bằng máu trên tấm vải trắng có nội dung như sau:

“Đi chết đi ĐCS VN bán nước”
“Tàu khựa cút khỏi Biển Đông”

Với câu trên, Phương Uyên bị buộc tội “phỉ báng đảng Cộng sản Việt Nam”; với câu dưới, nói những điều “không hay về Trung Quốc”.

Nhìn hai tấm biểu ngữ, được treo trên một hàng rào ở một nơi nào đó, ngay sau lưng Phương Uyên, tôi cứ băn khoăn. Cả hai đều khá lớn; mỗi chiều ít nhất cũng 60-70cm. Nét chữ cũng lớn. Để viết được chừng ấy chữ với kích thước như vậy, cần một lượng máu (dù pha nước đi nữa) khá nhiều. Không thể là máu của chỉ một mình em được. Thế nhưng cách diễn đạt trong hai biểu ngữ ấy lại có vẻ như được trào ra một cách tự phát và đầy cảm tính, của một người không quen sử dụng ngôn ngữ một cách chuyên nghiệp, dù trong lãnh vực tuyên truyền. Kiểu nói “Đi chết đi”, vốn xa lạ với mọi loại văn viết, chỉ thường được nghe trong các lời chửa rủa, có khi là vợ chửi chồng, chồng chửi vợ hoặc cha mẹ chửi con cái. Đó là một lời xua đuổi. Người ta chỉ xua đuổi cái gần mình, vốn gắn liền với mình. Không ai xua đuổi một người lạ hay ở xa. Bởi vậy, lời chửi rủa ấy thường được dùng trong phạm vi gia đình hơn là ngoài xã hội. Cũng bởi vậy, gần đây, nó được dùng như một câu nói có tính chất hài hước, trong các câu chuyện phiếm, thậm chí thành đề tài của hài kịch (do Hoài Linh đóng).

Với câu biểu ngữ “Đi chết đi ĐCS VN bán nước”, Phương Uyên và các bạn của em không hề có ý chống hay tiêu diệt đảng Cộng sản. Họ chỉ muốn nó biến đi cho khuất mắt. Họ đã chán nó đến tận cùng. Chán vì cái khúc “bán nước” ở cuối.

Câu “Tàu khựa cút khỏi Biển Đông” cũng vậy. Nó chả có gì không hay về Trung Quốc cả. Nó chỉ ghi nhận một thực tế: Trung Quốc đang chiếm cứ Biển Đông. Phương Uyên và các bạn chỉ muốn xua đuổi chúng đi.

Hay nhất trong câu ấy là chữ “Tàu khựa”.

Chắc chắn chữ “khựa” là một từ mới, chỉ xuất hiện trong vài năm gần đây. Trước, chưa hề có. Tôi cũng không hiểu ai đã đặt ra từ ấy và nó có ý nghĩa gì. Vào Google, thấy có nhiều người bàn, nhưng không ai đưa ra được một lời giải đáp nào có sức thuyết phục cả. Về phương diện ngữ nghĩa, “khựa” chưa hề có lịch sử hay tiền sử trong tiếng Việt. Về phương diện ngữ âm, nó gần với hai từ: “khứa”, chỉ một gã nào đó với hàm ý khinh thị (khứa lão) và “bựa”, một tính từ chỉ sự nhếch nhác và thiếu tư cách. Từ “khựa”, bất kể xuất phát từ đâu, đều có âm vang xấu từ hai từ ấy. Hơn nữa, theo Nguyễn Tuân, phần lớn những từ có phụ âm “KH” đều “nhắc đến gọi đến những vật những việc những trạng thái không được vừa mắt, vừa mũi, vừa tai, không được vừa lòng; nó khiến người ta trông thấy nghe thấy, rờ phải ngửi phải nếm phải, đều phải thấy không đẹp lòng, phải thấy khó chịu, đều phải phản đối bằng… một số từ mở ra bởi phụ âm kép KH rất chi là chối cho những cặp tai sành thẩm âm. Có thể nói như thế này được không: những phụ âm kép KH đó báo cáo những cái không hay…” (Chuyện nghề, nxb Tác Phẩm Mới, Hà Nội, 1986, tr. 143-7).

Nguyễn Tuân nêu nhận xét trên trong một bài viết từ năm 1972. Lúc ấy, Nguyễn Tuân chưa hề biết đến chữ “khựa”. Bây giờ đọc lại những nhận xét của ông, chúng ta thấy tất cả đều đúng. Và đúng nhất khi ứng dụng vào chữ “khựa”: Chúng ta không biết nghĩa nó là gì, nhưng nghe cái âm vang nó gợi ra, chúng ta đều cảm thấy khó chịu, hơn nữa, kinh tởm. Nó gợi liên tưởng đến những khai, những khẳm, những khẳn, những khét, những khú, những khạc, những khò khè, khù khờ, khừ khừ, khùng khùng, khô khốc, khấp khểnh, khệnh khạng, những khèng khẹc, những khắt khe, những khốn khổ, những khủng khiếp…

Ngày xưa, trong văn hóa chính thống, hình như lúc nào người Việt cũng phục Tàu, xem Tàu như mẫu mực để học tập và mô phỏng. Cha ông chúng ta học chữ Tàu, học lịch sử, triết học và văn chương Tàu. Từ lễ nghi trong triều đình đến tập tục trong xã hội đều cố gắng làm cho giống Tàu. Lâu lâu, họa hoằn mới có những chủ trương “đánh để dài tóc”, “đánh để đen răng” như thời Quang Trung. Nhưng đánh thắng Tàu rồi thì đến trường, vào lớp, vẫn phải ngoác mồm ra ra rả đọc mấy câu mật ngữ “Tử viết” hết năm này đến năm khác.

Trong văn hóa dân gian, đặc biệt, trong ngôn ngữ thì khác, có vẻ như người Việt không tôn trọng Tàu mấy. Họ thờ Khổng Tử, Lão Tử cũng như các cao đồ của hai ông; nhưng với con cháu của hai ông, những người đương thời, thì họ vẫn gọi là “chú”: “Chú ba Tàu” hay “Chú Chệc”. “Chú” có thể là vai em của ba; nhưng “chú” cũng có thể là vai em của mình: “chú em”. Không biết người Việt dùng theo nghĩa nào, nhưng có điều chắc chắn, những cách gọi ấy, thân mật thì có thân mật, còn tôn trọng thì không. Năm 1945, lính Tưởng Giới Thạch, dưới quyền của Lư Hán, vào miền Bắc để giải giới quân Nhật, được/bị dân chúng gọi là “Tàu phù”. Phù tức là phù thũng, một chứng bệnh phổ biến của lính Tàu lúc ấy. Cách gọi như thế, đầy tính chất mỉa mai, thể hiện sự rẻ rúng của người Việt. Nhưng bây giờ, với chữ “Tàu khựa”, nó không còn là mỉa mai hay rẻ rúng nữa: Nó biến thành một sự ghê tởm và khinh bỉ.

Có thể nói, chưa bao giờ người Việt lại ghét Tàu và khinh Tàu đến như vậy.

Dĩ nhiên, cần lưu ý, khái niệm Tàu ở đây không đồng nghĩa với người Hoa. Có lẽ người Việt chưa đến mức kỳ thị người Hoa. Tàu khựa chỉ là bọn Tàu cầm quyền. Chứ không phải là người Tàu nói chung. Phương Uyên cũng như các bạn của em và phần lớn người Việt có lẽ không có ý định xua đuổi người Hoa ra khỏi Việt Nam như chính quyền Việt Nam đã từng xua đuổi Hoa kiều ra khỏi Việt Nam vào những năm 1978-79. Các em chỉ đòi bọn “Tàu khựa cút ra khỏi Biển Đông”. Vậy thôi.

Các công tố viên ở Long An buộc Phương Uyên tội nói những điều “không hay về Trung Quốc”. Cái gọi là “không hay” ấy nằm ở đâu trong câu biểu ngữ “Tàu khựa cút khỏi Biển Đông”? Có lẽ không phải ở nhóm động từ “cút khỏi Biển Đông”. Bởi đó chỉ là sự kiện. Cái “không hay” có lẽ nằm ở danh từ “Tàu khựa”: Nó thể hiện sự khinh bỉ.

Với chính quyền Việt Nam, chữ “khựa” là một chữ húy. Ngay cả chữ “Tàu” cũng là một chữ húy. Tàu Trung Quốc (hay tàu của Tàu, theo cách gọi dân gian) đánh chìm tàu đánh cá Việt Nam hay bắt bớ hoặc giết chết ngư dân Việt Nam thì được gọi là “tàu lạ”.

Với chữ “Tàu”, còn thế, huống gì là “Tàu khựa”.

Tuy nhiên, điều thú vị là khi vào Google, tìm chữ “khựa”, tôi mới phát hiện ra, một số cây bút Việt Nam thỉnh thoảng cũng chơi trò du kích, đánh lén Tàu khựa trên cả báo chí chính thống.

Tôi bắt gặp hai lần như thế. 

 Một lần, trong một chuyện có nhan đề “Sự lên gân của Khựa” đăng trên báo Pháp Luật ngày 1/6/2011. Chuyện kể: Khựa là hàng xóm của Hai Lúa. Khựa hay qua ao nhà Hai Lúa trộm cá. Lúc đầu, ăn trộm, sau, nó cấm cả nhà Hai Lúa bắt cá ở ao nhà của họ. Tức quá, Hai Lúa chửi um lên. Khựa có thấy nhục không? Không. Tác giả, Người Sành Điệu, viết: “Khựa đâu cần quan tâm mấy lời chửi đó. Tổ tông nhà Khựa bao đời nay vốn vậy nên máu mủ trong người Khựa cũng vậy. Nghe đâu Khựa còn tự đắc là mình ngày càng đa mưu túc trí.”

Một lần khác, trong bài “Ba Khựa và món giỗ cha” của Thái Sinh trên báo Nông Nghiệp Thứ Sáu 14/12/2012. Đó là một câu chuyện phiếm có hai nhân vật chính: Thảo Dân và Ba Khựa. Hai người là láng giềng của nhau. Ba Khựa, làm nghề đồ tể, chuyên câu trộm cá ở ao nhà Thảo Dân. Thảo Dân trách, nó cứ chối. Một hôm, Ba Khựa mời Thảo Dân sang nhà ăn giỗ. Trong đám đồ cúng trên bàn thờ có một cái lưỡi bò bên cạnh một con dao nhọn buộc chỉ đỏ. Ngày hôm sau, Ba Khựa phát hiện cái lưỡi bò bị mèo tha mất nên tức giận quát tháo om sòm. Kết thúc câu chuyện có ý nghĩa: Mèo, thật ra, là Mẽo. Và Mẽo là Mỹ. Ý của tác giả rất rõ: Chỉ có Mỹ mới cắt được con đường lưỡi bò!

Như vậy, đâu phải chỉ có Nguyễn Phương Uyên và các bạn của em đòi đuổi đám Tàu khựa ra khỏi Biển Đông?

Buộc tội cho em như thế là oan.

Hơn nữa, còn làm cho chữ “Tàu khựa” đi vào lịch sử.

Thứ Sáu, 31 tháng 5, 2013

Ca dao biểu tình chống cộng của dân ngu

 

           Dân ngu thì đã lâu rồi,
           Yếu thì chịu yếu cần chi tỏ bày.
           Sống thì sống xỉn say,
           Sợ là sợ có ngày tiêu vong.
           Còn đảng thì còn nhân dân;
           Còn nhà còn bạc còn mong của trời.
           Ai dâng Nước, ai gọi mời,
           Dựng xây chủ nghĩa bao đời đấu tranh.
           Đấu tranh dâng Nước cho nhanh,
           Cho người sáng suốt lưu manh ba tàu.
           Lũ ngu cứ mãi  làu nhàu,
           Ngàn năm chưa tỉnh đảng nào là của dân?
           Đảng chúng tôi là đảng có công,
           Dạy cho người Việt ngu đần gian tham,
           Quây đầu về với tàu man;
           Nước Việt ta bán khỏi làm có ăn.
           Nếu muốn lật lộng lăng nhăng,
           Đừng nên chửi bới làm càn ích chi,
           Có ngon cướp chính quyền đi;
           Mới mong đảng sợ,đảng quỳ sửa sai.


                                                  Nguyễn Lộc

Thứ Sáu, 24 tháng 5, 2013

Dáng thơ mùa hạ



       Âm thầm ẩn khuất giữa đồi hoang,
       Từng cánh hoa mơ đón gió ngàn.
       Chiều xuống em về đùa nắng ấm,
       Ngày lên tôi đến mộng bên nàng;
       Tung bay tà áo vờn theo gió,
       Buông thả làn tơ nghiêng dáng ngoan.
       Mắt lướt chân trời ru hạ thắm,
       Ngàn năm văng vẳng tiếng ve vang.

                                         Nguyễn Lộc

Đạo phật thời toàn trị



           Thà đừng giảng đạo mà tu chứng,
         Lý thuyết dài dòng lại rối tung.
         Từ ngữ dao to gây mất hướng,
         Người dân kém trí vững lòng tin.
         Đem tiền dâng lộc cho thầy cúng,
         Chứng giám ơn lành nhớ đảng hung.
         Dân tộc đạo tràng và chủ nghĩa
         Tiếp tay phá nước sớm tiêu vong.

                                             Nguyễn Lộc

Thứ Năm, 23 tháng 5, 2013

Cung đàn ngũ uẩn



          Ánh bình minh dậy muôn tia nắng,
        Rung cánh chim trời nhịp sống tươi.
        Những đoá hoa đời hương sắc thắm,
        Vạn lời ong bướm ý tinh khôi.
        Quyện hoà trời đất duyên tao ngộ,
        Xoay chuyển âm dương giấc mộng người.
        Thương ghét  đàn vang cung ngũ uẩn,
        Âm thanh sắc tướng tấu muôn nơi .
                                         
                                           Nguyễn Lộc

Thứ Ba, 21 tháng 5, 2013

Nguyễn Hưng Quốc - Bản án dành cho chế độ



Nguyễn Hưng Quốc


Nguyễn Phương Uyên, sinh viên Đại học Công Nghệ Thực phẩm TPHCM, và 8 năm tù đối với Đinh Nguyên Kha, sinh viên Đại học Kinh tế Công nghiệp Long An tại Tòa án nhân dân tỉnh Long An, ngày 16 tháng 5, 2013.
  
Phiên toà xét xử Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha tại Long An ngày 16 tháng 5 kết thúc vào lúc 4 giờ chiều với bản án: Kha bị 8 năm tù và Phương Uyên bị 6 năm tù; ra tù, cả hai đều bị quản chế thêm ba năm nữa. Lúc ấy, ở Úc là bảy giờ tối. Từ đó đến sáng hôm sau, Thứ Sáu 17/5, tôi nhận được cả mấy trăm bức email từ khắp nơi. Có người gửi riêng cho tôi; có người gửi chung trong các mailing list gồm nhiều người. Tất cả đều nói về một chuyện: Phương Uyên. Chỉ có một số ít trình bày dài dòng cảm nghĩ của họ; còn lại, đại đa số, chỉ chuyển các thông tin về phiên tòa mà tôi đã được đọc trên các tờ báo mạng kèm theo vài lời bình ngăn ngắn đầy phẫn nộ.

Số lượng email ấy nói lên điều gì? Chỉ một điều đáng kể nhất: Sự quan tâm và bức xúc của mọi người.

Sau đó, vào các trang báo mạng của các blogger độc lập trong nước cũng như các website ngoài nước, hầu như ở đâu tôi cũng thấy các bài viết về phiên tòa và bản án ấy. Nhiều bài cung cấp những thông tin rất chi tiết, như “Tường thuật phiên tòa 2 sinh viên yêu nước Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha tại Long An” của Dân Làm Báo hay bài “Những chuyện bên trong và chưa nói về phiên tòa xử sinh viên yêu nước Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha” của Hải Huỳnh. Đó là chưa kể các bản tin trên nhiều cơ quan thông tấn ở ngoại quốc, trong đó, có BBC và VOA.

Tôi chú ý nhất đến bài “Tiếng nói Uyên, Kha trước tòa, lời cảnh tỉnh cuối cùng cho đảng CSVN” của nhà thơ Hoàng Hưng. Chú ý vì nó sáng suốt, và đặc biệt, mạnh mẽ. Ông cho việc kết án nặng nề đối với Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên là một việc làm “phi pháp, phi nghĩa, phản dân phản nước và cũng thật ngu xuẩn”. Ông cũng xem “phiên tòa xét xử Kha, Uyên là một dấu mốc lịch sử trên con đường đấu tranh dân chủ của Việt Nam”. Dấu mốc ấy thể hiện ở mấy điểm chính: Thứ nhất, cả hai đều rất trẻ. Thứ hai, cả hai đều dũng cảm, bất chấp những sự đe dọa hay mua chuộc của công an, dõng dạc khẳng định “Tôi không có tội” hoặc “chỉ có một tội là yêu nước”. Thứ ba, cả hai không những có những nhận định chính trị sâu sắc mà còn có “phong thái đàng hoàng, đĩnh đạc, hiên ngang” khi đứng trước tòa. 

Dường như, liên quan đến phiên tòa, điều gây ấn tượng mạnh mẽ nhất cho mọi người chính là cái phong thái ấy. Khi đăng lại bài phỏng vấn “Việt Nam tuyên án nặng 2 sinh viên chống Trung Quốc” của Trà Mi trên blog Quê Choa của mình, nhà văn Nguyễn Quang Lập đã sửa lại nhan đề, nhằm làm nổi bật phong thái bất khuất của hai thanh niên yêu nước này: “Suốt phiên tòa, Uyên & Kha đều ngẩng cao đầu”. Đạo diễn Song Chi cũng chú ý và nêu bật phong thái ấy trong bài “Ngẩng cao đầu, tiếp bước nhau vào nhà tù nhỏ”. Nhà báo Ngô Nhân Dụng, trên Người Việt, xem phong thái ấy là tiêu biểu cho cả một thế hệ mới ở Việt Nam: “Một thế hệ không cúi đầu”.

Báo Diễn Đàn tại Pháp chỉ đăng bức ảnh của Phương Uyên kèm theo câu nói của em trước tòa “Việc tôi làm thì tôi chịu, xin nhà cầm quyền đừng làm khó dễ mẹ hay gia đình của chúng tôi. Chúng tôi làm để thức tỉnh mọi người trước hiểm họa Trung Quốc xâm lược đất nước và cuối cùng là chúng tôi làm xuất phát từ cái tấm lòng yêu nước nhằm chống cái xấu để làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp tươi sáng hơn” dưới một nhan đề đầy ý nghĩa “Dáng đứng Phương Uyên”. Nhà báo Trương Duy Nhất, ở trong nước, cho hình ảnh của Nguyễn Phương Uyên đứng trước tòa là “tuyệt đẹp”. Nhà văn Nguyễn Quang Lập, khi nhắc đến Phương Uyên, đã dùng chữ “sự bình thản trong suốt” và “tuyệt vời”. Nhà thơ Trần Mạnh Hảo làm bài thơ lục bát ca ngợi Phương Uyên, xem em như một đóa hoa, một đóa hoa bị bỏ tù.

Theo tôi, vài năm hay nhiều năm nữa, có lẽ người ta sẽ quên các chi tiết liên quan đến phiên tòa và các bản án. Nhưng người ta sẽ nhớ mãi cái hình ảnh, như nhà văn Trần Trung Đạo mô tả: “Cô bé đứng trên bục cao, đôi kính cận có gọng dày, tóc vén cao, áo trắng học trò, thân hình mảnh mai trông giống như một cô bé học sinh 15 tuổi đang đứng trước bảng đen trong lớp học chứ không phải đứng trước tòa án Cộng sản. Em không sợ hãi, không van xin, trầm tĩnh và tinh khôi như một thiên thần.”

Cũng giống như hiện nay, có lẽ không phải ai cũng nhớ các chi tiết liên quan đến phiên tòa xét xử luật sư Cù Huy Hà Vũ tại Hà Nội ngày 4/4/2011, nhưng tôi tin là nhiều người còn nhớ hình ảnh của ông, hai tay bị còng, ra tòa với bộ đồ vét đen và chiếc cà vạt màu đỏ với những chấm trắng, toát lên vẻ uy nghi của một trí thức khi đối diện với bạo quyền.

Cũng vậy, người ta vẫn còn nhớ và có lẽ sẽ còn nhớ mãi hình ảnh Linh mục Nguyễn Văn Lý bị một nhân viên an ninh bịt miệng ngay trước tòa án tại Huế vào ngày 30/3/2007 dù có lẽ, không mấy người còn nhớ ông bị buộc tội gì và bị kết án mấy năm tù.

Liên quan đến tòa án, tôi cho đó là ba hình ảnh tiêu biểu nhất cho việc đàn áp dân chúng của chính quyền Việt Nam hiện nay: đàn áp tu sĩ, đàn áp trí thức và đàn áp cả những thanh niên còn trẻ măng không làm gì khác ngoài việc bày tỏ lòng yêu nước hay, nói theo lời các công tố viên khi buộc tội Nguyễn Phương Uyên, là “nói những điều không hay về Trung Quốc”.

Tôi tin những hình ảnh sẽ còn lại mãi. Như, trước đây, trong chiến tranh Việt Nam, những yếu tố gây ấn tượng mạnh nhất đối với người Mỹ và người Tây phương nói chung, không phải là các bản tin, mà là các bức ảnh, bắt đầu với bức ảnh chụp cảnh Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu ngay tại Sài Gòn vào năm 1963, và sau đó, bức ảnh chụp cảnh cô bé Kim Phúc trần truồng chạy trên đường với vết cháy khắp người do bom napalm gây ra vào năm 1972. Gần 40 năm sau 1975, với rất nhiều người Tây phương, kể cả trong giới trí thức, chiến tranh Việt Nam chỉ còn lại mấy hình ảnh chính. Không có gì khác.

Trước đây, ở cả Tây phương lẫn Đông phương, người ta đều đề cao sức mạnh của ngòi bút, thường ví ngòi bút với lưỡi gươm; thậm chí, với một số người, như Edward G. Bulwer-Lytton, cho ngòi bút còn mạnh mẽ hơn cả lưỡi gươm (the pen is mightier than the sword). Ở Việt Nam, cũng có nhiều người nói như vậy. Khen Nguyễn Trãi, Phan Huy Chú viết: “Văn chương của ông có sức mạnh bằng mười vạn quân”. Phan Bội Châu cũng từng viết: “Sức vãn hồi bút mạnh hơn gươm.” Trước Phan Bội Châu và Phan Huy Chú, đời Lê, Thân Nhân Trung có lần mơ ước: “Sức bút tung hoành quét sạch hàng nghìn quân”. Trước đó nữa, vua Trần Thái Tông cũng tâm niệm: “Văn chương phải có thế trận đuổi nghìn quân giặc” (Văn bút tảo thiên quân chi trận). Tuy nhiên, sau này, ở thời đại thông tin, người ta khám phá ra, sức mạnh thực sự không nằm trong chữ nghĩa mà chính là ở hình ảnh.

Trong bài nói chuyện nhan đề “Tính chính trị của hình ảnh” tại Malta vào ngày 4 tháng 6 năm 2008, Tiến sĩ Michael Frendo, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại của Malta, cho tất cả các chính trị gia đều ý thức rất rõ là một hình ảnh nằm ở trang nhất của các tờ báo có sức mạnh hơn hẳn các bài diễn văn hay bình luận trên tờ báo ấy. Chữ, đọc xong, có khi người ta quên ngay. Chỉ có hình ảnh là còn lại. Frendo cho đó là một đặc điểm nổi bật của thời đại chúng ta. Ông dẫn lại một nhận xét của Bernard Manin trong cuốn The Principles of Representative Government (1997), cho, trước, sân khấu chính của chính trị chủ yếu nằm ở Quốc hội và các trung tâm đầu não của các đảng phái; sau, nó nằm ở các phương tiện truyền thông đại chúng. Manin gọi đó là nền “dân chủ khán giả” (audience democracy), ở đó, dân chúng chọn lựa giới lãnh đạo qua các hình ảnh họ nhận được từ các phương tiện truyền thông đại chúng như báo chí, truyền thanh, truyền hình, và gần đây, internet. Trong thời đại của nền “dân chủ khán giả” như thế, hình ảnh trở thành một sức mạnh vạn năng: Chính qua các hình ảnh được chọn lọc kỹ càng, các chính khách trở thành nổi tiếng, gần gũi và đáng tin cậy đối với quần chúng.

Các chế độ độc tài cũng biết cách tận dụng hình ảnh để tuyên truyền và vận động quần chúng. Mặc dù tất cả các lãnh tụ của Nazi, Phát xít và hầu hết các lãnh tụ của Cộng sản đều là những sát thủ đứng đầu trong lịch sử với “thành tích” giết hại có khi cả đến mấy chục triệu người, nhưng, trên các trang báo cũng như trên máy truyền hình, bao giờ họ cũng xuất hiện một cách hiền lành bên cạnh trẻ con. Chính vì vậy, tất cả các chế độ độc tài đều cố hết sức siết chặt các phương tiện truyền thông. Họ kiểm duyệt từng bức ảnh một.

Nhưng nếu các chế độ độc tài duy trì quyền lực bằng cách kiểm soát hình ảnh thì hình ảnh, tự chúng, cũng có sức mạnh đủ để quật ngã các chế độ độc tài ấy. Ai cũng biết yếu tố đầu tiên dẫn đến cuộc cách mạng mùa xuân ở Ai Cập, cuối cùng, dẫn đến sự sụp đổ của chế độ độc tài Hosni Mubarak vào năm 2011 chính là những bức ảnh chụp thi thể của anh thanh niên Khaled Mohamed Saeed, người bị cảnh sát đánh chết vào ngày 6/6/2010. Hình ảnh thân thể Saeed bị đánh bầm dập với cái miệng há hốc đầy máu me, khi được tung lên mạng, đã khiến hàng triệu người dân Ai Cập phẫn nộ, từ đó, xuống đường biểu tình. Và cách mạng bùng nổ.

Dĩ nhiên, còn quá sớm để có thể nói hình ảnh của một Nguyễn Phương Uyên, một Cù Huy Hà Vũ hay một Nguyễn Văn Lý trước tòa có thể làm thay đổi điều gì ngay ở Việt Nam. Tuy nhiên, chúng sẽ còn lại, như bằng chứng của một tội ác. Với những bằng chứng ấy, bản án dành cho họ trở thành bản án dành cho chế độ.

Một chế độ độc tài và tàn bạo.

Tâm hành thiện ác



         Tu hành còn vướng mối tham si,
       Vật chất nao lòng có ra gì !
       Thuận cảnh chan hoà tình quyến luyến
       Nghịch duyên lộ diện luống sầu bi.
       Hạt giống ác căn nằm lẩn quất,
       Tâm lành cội rễ giữ oai nghi
       Khách quen tàng thức thường lui tới,
       Ngã mạn khua lên địa ngục quy !

                                          Nguyễn Lộc

Thứ Hai, 20 tháng 5, 2013

Lang thang chiều vắng

 

       Đây buổi hoàng hôn gió bụi đường,
       Nghe chừng nổi nhớ dậy quê hương.
       Nhạt nhoà nắng trải quanh đồi vắng,
       Thoang thoảng hương đưa suốt dặm trường.
       Văng vẳng dư âm sầu viễn xứ,
        Lững lờ nhịp bước phủ trời sương.
        Bóng chiều nghiêng ngã vờn hoa dại,
        Lãng đãng thinh không tiếng thở buồn.

                                                  Nguyễn Lộc
     

Ca dao chống độc tài toàn trị



        Ai ơi hãy nhớ điều nầy,
      Nghe theo lời đảng tự gây khổ mình.
      Bây giờ đã lỡ điêu linh,
      Thì mau gắng sức giữ gìn non sông,
      Diệt loài tòan trị hại nhân,
      Hãy mau thức tỉnh người dân đang chờ.
      Độc tài không dễ thờ ơ,
      Dựa vào kẻ dại nhởn nhơ vui đùa,
      Mặc ai đói khát bơ vơ,
      Chuyện người, người biết, chẳng sờ vào ai ,
      Đến khi đảng hết tiền xài,
      Quơ quào của dại của khôn cho mình.
      Sống trong xã hội vô minh,
      Mạnh thì được cả "văn minh luật rừng".
      Học đòi theo thói vô luân,
      Chẳng cần đạo đức lòng nhân với người.
      Lòng tham đã thắng cuộc đời,
      Quân tàu dòm ngó chờ thời Việt vong.

                                                Nguyễn Lộc

Thứ Sáu, 17 tháng 5, 2013

Lời than của Mặt trận giải phóng miền nam xưa



       Dầu ai nói ngược nói xuôi,
      Lòng ta vẫn chịu là người mua vui.
      Dầu ai  có giữ nụ cười,
      Lòng ta vẫn chịu là người u mê.
      Dầu ai phỉ báng ê chề,
      Lòng ta vẫn chịu tái tê lầm đường.
      Dầu ai khanh tướng diễu dương,
      Lòng ta vẫn chịu là phường bội vong.
      Dầu ai nói chuyện đợi mong,
      Lòng ta hối hận Nước dâng cho Tàu.

                                            Nguyễn Lộc

Thứ Tư, 15 tháng 5, 2013

Tiếng chim gọi đàn

 

          Chim khẽ trên cành rưng tiếng khóc,
        Thì thầm nhớ tổ lúc xa nguồn.
        Lạc đàn lẽ bạn thân phiêu bạt,
        Nhớ nước sầu non lệ tủi buồn.
        Biết bao cuộc sống luôn trôi nổi,
        Vô số dân lành mãi oán vương.
        Cầu nguyện quan quyền thôi cướp bóc,
        Quay về chung sống trọn tình thương.

                                              Nguyễn Lộc

Sợ hãi và lòng tham



            Ta mắc lỗi lầm nên sợ hãi,
          Hận thù muốn tránh phải ra tay.
          Ý dò thăm hỏi trừ hậu hoạ,
          Tìm cách an thân giấc mộng dài.
           Ma quỷ đưa đường tâm bấn loạn,
           Con người dối gạt chuyện làm sai.
           Tưởng rằng lợi lạc do tu chứng,
           Chỉ một lòng tham ác nghiệp bày.

                                                Nguyễn Lộc

Thứ Ba, 14 tháng 5, 2013

Nguyễn Hưng Quốc - Từ chống Cộng đến chống toàn trị



Nguyễn Hưng Quốc

Trong lịch sử loài người, thời nào cũng có xung đột. Nhưng xung đột ở thế kỷ 20 và 21 khác các thế kỷ trước ở nhiều điểm.


Thứ nhất, chúng có tính chất toàn cầu. Trước đó, một số đế quốc mang quân đi chinh phạt nhiều quốc gia thuộc nhiều lục địa khác nhau, nhưng xung đột vẫn giới hạn giữa hai quốc gia chính: đế quốc và thuộc địa. Đã có một số liên minh được thành lập để chống lại một nước nào đó, nhưng tất cả các liên minh ấy đều tạm thời và cũng chỉ giới hạn trong một khu vực nhất định. Bắt đầu từ đầu thế kỷ 20, ngược lại, với hai cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai cũng như cuộc Chiến tranh lạnh kéo dài gần nửa thế kỷ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, quy mô của xung đột mới thực sự có tính toàn cầu: Không có nơi nào thoát khỏi ảnh hưởng của chúng.

Thứ hai, lần đầu tiên trong lịch sử, thông tin, và cùng với nó, tuyên truyền, trở thành một thứ vũ khí chủ đạo. Trong thông tin và tuyên truyền, có hai yếu tố đóng vai trò chủ yếu: hình ảnh và ngôn ngữ. Trong hai yếu tố ấy, hình ảnh là một yếu tố mới, gắn liền với các kỹ thuật truyền thông hiện đại, đặc biệt báo chí và truyền hình. Còn ngôn ngữ thì đã có từ lâu. Nó chỉ thay đổi ở mức độ và cách thức được sử dụng. Có thể nói chưa bao giờ ngôn ngữ bị chính trị hóa một cách sâu sắc đến như vậy.

Thứ ba, như là hệ quả của điểm trên, chỉ từ thế kỷ 20 trở đi, các cuộc xung đột mới mang màu sắc văn hóa rõ nét. Hậu quả là, bên cạnh mặt trận quân sự và chính trị vốn hiện hữu từ lâu, người ta có thêm một thứ mặt trận mới: mặt trận văn hóa. Mục tiêu chính của mặt trận văn hóa là chinh phục tình cảm và tư tưởng của con người. Có khi chính mặt trận văn hóa này quyết định cục diện của cuộc chiến đấu, phân định kẻ thắng và người thua, một cách tạm thời cũng như trong dài hạn. Theo Samuel P. Huntington, trong cuốn The Clash of Civilizations and the Remaking of World Order (1996), xung đột chính trên phạm vi toàn thế giới sau thời kỳ chiến tranh lạnh không còn xuất phát từ ý thức hệ như trước mà chủ yếu xuất phát từ văn hóa, trong đó yếu tố quan trọng nhất là tôn giáo. Tình hình chính trị thế giới sau biến cố 11/9/2001, châu tuần chung quanh cuộc chiến chống khủng bố vốn gắn liền với các phần tử Hồi giáo cực đoan, dường như củng cố một phần các luận điểm của Huntington.

Trong mặt trận văn hóa và với vai trò của thông tin cũng như tuyên truyền, việc định danh (hay gọi tên) là một trọng tâm trong chính sách của mọi phía.

Trên nguyên tắc, sự khác biệt căn bản giữa các nước Cộng sản (từ 1917 đến 1991) và các quốc gia Tây phương là ở bình diện kinh tế, hoặc nói theo thuật ngữ của các nhà Mác-xít, ở phương thức sản xuất: Đó là sự khác biệt giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, để ý mà xem, trên hầu hết các khẩu hiệu được sử dụng ở các nước Cộng sản ấy, từ Liên Xô đến Trung Quốc và cả Việt Nam nữa, khẩu hiệu trung tâm và phổ biến nhất, là chống chủ nghĩa đế quốc (hoặc gọn hơn, như ở Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp, “phản đế”, anti-imperialism) chứ không phải là chống chủ nghĩa tư bản (anti-capitalism).

Khi đưa việc chống chủ nghĩa đế quốc thành nội dung chính trong chính sách tuyên truyền, Lenin đã thay đổi một luận điểm căn bản của Karl Marx: Với Marx, được trình bày trong cuốn Tư bản luận, chủ nghĩa đế quốc là thời tiền sử - hoặc sơ kỳ - của chủ nghĩa tư bản; với Lenin, nó là giai đoạn phát triển cao nhất của chủ nghĩa tư bản; http://www.marx2mao.com/Lenin/IMP16.html với Marx, nó đã hoặc sắp thuộc về quá khứ, với Lenin, nó đang ở thì hiện tại và có thể, trong tương lai. Biểu hiện rõ nhất của chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa thực dân (colonialism).

Có điều, sau thập niên 1950, chủ nghĩa thực dân hầu như tan rã khắp nơi: Hầu hết các nước thuộc địa, bằng chiến tranh hoặc bằng biện pháp hòa bình, lần lượt giành được độc lập. Các nhà tuyên truyền Cộng sản phải tạo nên một khái niệm mới: chủ nghĩa thực dân mới (neo-colonialism). Nếu, nói như Lenin, chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn phát triển cao nhất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân mới được xem là giai đoạn phát triển cao nhất, thậm chí, là giai đoạn cuối cùng, của chủ nghĩa đế quốc.

Cả chủ nghĩa thực dân cũ lẫn chủ nghĩa thực dân mới đều nhắm đến một mục tiêu giống nhau: kiểm soát các thuộc địa. Chỉ khác ở cách thức và phương tiện: Với chủ nghĩa thực dân cũ, đó là quân sự và việc xâm chiếm lãnh thổ; với chủ nghĩa thực dân mới, đó là kinh tế và âm mưu thực dân hóa tâm hồn con người bằng một thứ “văn hóa đồi trụy”; với chủ nghĩa thực dân cũ, cái lợi chủ yếu nằm ở tài nguyên và sức lao động, với chủ nghĩa thực dân mới, cái lợi chủ yếu nằm ở thị trường và các ảnh hưởng chính trị trên bàn cờ quốc tế.

Có thể nói một cách tóm tắt, sự phát triển của phong trào Cộng sản thế giới từ cuối thế kỷ 19 cho đến lúc sụp đổ vào cuối thế kỷ 20 đã trải qua ba giai đoạn với ba khẩu hiệu chính: Thoạt đầu, với Marx và Engels, đó là chống chủ nghĩa tư bản; với Lenin và Stalin, là chống chủ nghĩa đế quốc; với các nhà lãnh đạo sau Stalin, là chống chủ nghĩa thực dân mới. Về phương diện tuyên truyền, hai giai đoạn sau tinh tế hơn: Nó chuyển mục tiêu từ kinh tế sang chính trị; và ở chính trị, biến một ý thức hệ trừu tượng và mơ hồ thành một ác quỷ mang mặt người với súng đạn và tiền bạc, với những bàn tay đầy máu me. Tất cả đều được sử dụng như những con ngoáo ộp để dọa dẫm người khác. Bên cạnh những con ngoáo ộp ấy, mọi quốc gia thân thiện với Mỹ đều bị gắn nhãn là tay sai hoặc là bù nhìn. Chưa hết, vì cả hai đều là những giai đoạn “phát triển cuối cùng” nên sau đó chỉ là “vực thẳm”! Hình ảnh để quốc đứng trên bờ vực thẳm là một sáo ngữ được lặp đi lặp lại khắp nơi.

Về phía Tây phương, để chống lại sự phát triển và những đe dọa từ chủ nghĩa Cộng sản, kể từ sau năm 1917, người ta đã tung ra những chiến dịch chống Cộng rầm rộ dưới nhiều hình thức và bằng nhiều phương tiện khác nhau, từ quân sự đến chính trị và văn hóa. Trong lãnh vực văn hóa, người ta nhắm đến việc chứng minh lý thuyết của Marx và Lenin, đặc biệt chủ nghĩa duy vật lịch sử, là sai: Với Marx, lịch sử phát triển theo con đường tuyến tính, sau chủ nghĩa phong kiến là chủ nghĩa tư bản và sau chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Cộng sản; với những người chống Cộng, diễn trình ấy chỉ là một ngộ nhận và cái gọi là chủ nghĩa Cộng sản như một thứ thiên đường hạ giới chỉ là một không tưởng.

Tuy nhiên, khi biến việc chống Cộng thành một khẩu hiệu chính như vậy, người ta lại vấp phải khá nhiều sai lầm trong việc thu hút sự chú ý và sự đồng tình của quần chúng, đặc biệt của giới trí thức.

Thứ nhất, nó biến một xung đột chính trị, thậm chí, xung đột vũ trang thành một thứ xung đột về phương diện lý thuyết. Thay vì chống lại những đội quân hùng hậu đang cầm súng bắn vào họ hoặc bắn vào nhân dân của nước họ, người ta lại tập trung vào việc chống lại ông Marx và ông Engels cũng như các tác phẩm triết học và kinh tế học dày cộm của hai ông ấy – những tác phẩm mà, oái oăm thay, ngay chính các lãnh tụ cao cấp nhất của các đảng Cộng sản cũng chưa chắc đã đọc!

Thứ hai, chống lại chủ nghĩa Cộng sản không khác gì chống lại một tôn giáo. Cả chủ nghĩa Cộng sản lẫn tôn giáo, bất cứ tôn giáo nào, đều giống nhau ở chỗ: cả hai đều nhắm đến những lý tưởng cao đẹp và cao cả, nhằm giải phóng và cứu rỗi con người. Người ta không thể chống lại những lý tưởng như thế. Hơn nữa, ngay cả khi người ta có thể chứng minh những lý tưởng ấy chỉ là những sự không tưởng, người ta cũng rất khó thuyết phục được người khác. Có hai lý do chính. Một, với lý tưởng, người ta sử dụng niềm tin hơn lý trí. Mà niềm tin lại có thể bất chấp lý trí. Hai, nhân danh những lý tưởng ấy, người ta có thể biện hộ cho các sai lầm trong hiện thực: lý tưởng đúng, chỉ có chính sách là sai. Mà chính sách thì có thể thay đổi được. Nếu không thay đổi được thì cũng có thể… thông cảm được.

Lý do thứ hai kể trên là thái độ chung của rất nhiều trí thức Tây phương trong suốt thế kỷ 20. Không phải người ta không biết Cộng sản độc tài và tàn bạo; không phải người ta không biết Stalin và Mao Trạch Đông đã giết chết cả hàng chục triệu người. Nhưng người ta vẫn cho đó chỉ là những giải pháp tình thế trong giai đoạn chuyển tiếp của cách mạng. Với họ, đó là những cái giá phải trả và cần trả cho một tương lai tốt đẹp hơn của nhân loại.

Đó là chưa kể việc nhân danh chiêu bài chống Cộng, một số chính trị gia đã trở thành những kẻ hung hãn, khắc nghiệt, thậm chí độc tài đến độ bóp nghẹt cả tự do và dân chủ, biến thành những cơn ác mộng hãi hùng trong xã hội. Tiêu biểu nhất là trường hợp Thượng nghị sĩ Joseph MacCarthy (1908-1957) ở Mỹ. Chống Cộng một cách cuồng nhiệt, McCarthy liên tục chụp mũ hết người này đến người khác là Cộng sản hoặc là gián điệp của Cộng sản và yêu cầu Quốc hội phải điều tra để làm sáng tỏ “tội phạm” của họ. Ông nhắm mũi dùi tấn công vào cả văn phòng Tổng thống Harry Truman (có khi ngay chính bản thân Tổng thống Truman!), Quân đội Mỹ và đặc biệt, đài Tiếng nói Hoa kỳ (VOA). Do yêu cầu của ông, từ năm 1949 đến 1954, Quốc hội Mỹ đã mở trên 100 cuộc điều tra lớn. Nhiều công chức cao cấp, kể cả nhân viên đài VOA bị mang ra Quốc hội trả lời các cuộc điều tra của ông (có người không chịu nổi sức ép và sự nhục nhã đã tự tử ngay trong quá trình điều tra để chứng minh mình vô tội!) Chưa hết. Ông còn lùng sục vào các thư viện, tố cáo hết cuốn này là của Cộng sản đến cuốn khác là thân Cộng và yêu cầu phải dẹp bỏ; cuối cùng, có đến 30.000 cuốn sách bị loại ra khỏi các kệ sách trong thư viện. Nhiều trí thức và văn nghệ sĩ nổi tiếng, như Richard Wright, James Baldwin, Lester Cole… không chịu nổi cảnh ấy, đã bỏ sang Âu châu sinh sống.

McCarthy và chủ nghĩa McCarthy (McCarthyism) đã gây kinh hoàng cho đa số dân chúng Mỹ và trở thành một hình ảnh xấu trong chính trường Mỹ. Nhiều nhà bình luận chính trị cho chủ nghĩa McCarthy là một món quà quý báu nhất mà người Mỹ đã tặng cho Stalin. Nói cách khác, không ai có “công” đối với Cộng sản cho bằng chủ nghĩa McCarthy. Một mặt, nó làm việc “chống Cộng” trở thành đồng nghĩa với một cái gì cực đoan và thô bạo. Nó gợi lên những ấn tượng thật xấu, một “bad name”, thậm chí, một “từ bẩn thỉu” (“dirty word”). Mặt khác, nó làm nản lòng những người chống Cộng thực sự. Trước, những người chống Cộng nhất là những người có tinh thần tự do; sau, là những người bảo thủ, lại là thứ bảo thủ hẹp hòi. Những người có tinh thần tự do, ngược lại, một mặt, không thích Cộng sản, mặt khác, lại dị ứng với việc chống Cộng.

Hai sự kiện trên dẫn đến hai hiện tượng đáng tiếc.

Thứ nhất, nó làm nảy nở phong trào chống-chống Cộng (anti-anti-communist) ở Tây phương, ngay tại Mỹ, trong suốt thập niên 1960 và 1970. Chính trong khí quyển tinh thần như thế, Jean-Paul Sartre đã nói một câu đầy tai tiếng: “Các tên chống Cộng đều là chó.”

Thứ hai, nó khiến người ta quên bẵng đi chủ nghĩa phát xít hoặc xem những người chống Cộng như là đồng minh của chủ nghĩa phát xít, trong khi, trên thực tế, ai cũng biết, như Susan Sontag tuyên bố trong một bài diễn văn tại New York năm 1982: “Chủ nghĩa Cộng sản là chủ nghĩa phát xít, một thứ chủ nghĩa phát xít thành công.” (Communism is Fascism - successful Fascism)

Xin lưu ý là: Mặc dù xem chủ nghĩa Cộng sản là một thứ chủ nghĩa phát xít, Susan Sontag cũng không thích những người chống Cộng dù bà không hề phản đối những người chống lại chủ nghĩa phát xít. Trong chiến tranh Việt Nam, bà từng ủng hộ Hà Nội và từng đi Hà Nội, sau đó, viết nguyên cả cuốn sách về chuyến đi ấy dưới nhan đề Trip to Hanoi (1969).

Ở đây, chúng ta thấy một nghịch lý của rất nhiều trí thức Tây phương: Người ta vừa không thích chủ nghĩa Cộng sản vừa không thích những người chống lại Cộng sản. Có điều, những người Cộng sản thì ở xa, trong khi đó, những người chống Cộng lại ở gần, rất gần. Cộng sản tồn tại như một ý niệm trừu tượng, thuộc một thế giới khác, trong khi những người chống Cộng lại cụ thể, hiện diện ngay trước mắt, và không ngừng quấy nhiễu họ. Chính vì vậy, có lúc phong trào chống-Chống cộng mạnh hơn cả các phong trào chống Cộng. Hơn nữa, cũng cần lưu ý, những trí thức khuynh tả mang tinh thần chống-chống Cộng như vậy, một thời gian dài, có rất nhiều ảnh hưởng trong hệ thống giáo dục ở Tây phương. Do đó, ấn tượng xấu về các phong trào chống Cộng càng lúc càng lan rộng và còn lại lâu dài. Không chừng đến tận bây giờ. (Những ai có điều kiện tiếp xúc nhiều với giới trí thức Tây phương có thể thấy rõ điều này.)

Nhận ra được điều đó, ngay từ thập niên 1960, một số nhà chiến lược và trí thức đề nghị chuyển đổi mục tiêu và tiêu ngữ: thay vì giương cao ngọn cờ chống Cộng (anti-communism), người ta lại hô hào chống toàn trị (anti-totalitarianism).

Có bốn nguyên nhân chính của việc chuyển đổi từ chống Cộng đến chống toàn trị:

Thứ nhất, nhờ các công trình nghiên cứu của Hannah Arendt, đặc biệt cuốn The Origins of Totalitarianism, được xuất bản lần đầu năm 1950, nghĩa là trước bài phát biểu nhắc ở trên của Susan Sontag trên 30 năm, người ta nhận thấy chủ nghĩa Cộng sản rất gần chủ nghĩa phát xít: cả hai đều độc tài và toàn trị; cả hai đều là những tội ác khủng khiếp. Nếu người ta chống lại chủ nghĩa phát xít thì người ta cũng cần chống lại chủ nghĩa Cộng sản. Vì cả hai là một. Bằng cách đó, công cuộc chống Cộng huy động được một lực lượng cực kỳ đông đảo ở Tây phương: những người chống lại chủ nghĩa phát xít, trong đó, có cả hàng chục triệu người vốn là nạn nhân hoặc là thân nhân của các nạn nhân của chủ nghĩa phát xít.

Thứ hai, tập trung vào khía cạnh độc tài và toàn trị, một mặt, người ta né tránh được khía cạnh lý thuyết và chỉ nhắm vào khía cạnh thực tiễn; mặt khác, người ta cũng tránh được những ấn tượng xấu do chủ nghĩa McCarthy để lại trong dư luận quần chúng. Bằng cách đó, người ta vừa hạn chế được mặt yếu của mình (sự hoành hành của phong trào chống Cộng cực đoan) vừa khai thác được mặt yếu của đối phương (thực tế độc tài và nghèo đói, sự hiện diện của các trại tù và trại tập trung cải tạo từng giết chết cả hàng triệu người).

Thứ ba, với chiêu bài chống toàn trị, người ta sử dụng một bảng giá trị và những lý tưởng khác ngoài chủ nghĩa tư bản: Người ta chống lại toàn trị không phải để bảo vệ chủ nghĩa tư bản, vốn dù cố gắng đến mấy, vẫn còn đầy những bất toàn, mà là để bảo vệ những lý tưởng cao cả nhất của nhân loại: tự do, bình đẳng và nhân quyền. Bằng cách đó, nó huy động được sự ủng hộ của nhiều người hơn, đặc biệt các trí thức khuynh tả, những người vốn cấp tiến và yêu chuộng tự do.

Thứ tư, như là hệ quả của ba điểm trên, với nội dung chống toàn trị, cuộc đấu tranh chống lại Cộng sản có một nội dung cụ thể. Nói chung, bất cứ một phong trào nào bắt đầu bằng chữ “chống” cũng đều có một nội dung tiêu cực: Nó nhằm phủ nhận. Nó không hứa hẹn một sự thay thế nào cả. Nhưng khi xem việc phủ nhận là mục tiêu chính của việc tranh đấu, người ta cũng lại tự tạo thành những khoảng trống ngay dưới chân mình. Hậu quả là người ta chỉ chiến đấu một cách chơi vơi, từ đó, không có sức mạnh gì đáng kể. “Chống toàn trị”, ngược lại, hầu như là một ngoại lệ. Nó không đơn thuần là một sự phủ định. Mà còn là một sự xây dựng. Lý do chính là “toàn trị” chỉ có một mặt đối lập: Dân chủ. Chống toàn trị bao hàm ý nghĩa là bênh vực và xây dựng dân chủ. Không thể có cách hiểu nào khác.

Với bốn lý do nêu trên, từ nửa sau thập niên 1970, việc chống chủ nghĩa toàn trị đã trở thành tâm điểm trong ý thức hệ chống Cộng thời Chiến tranh lạnh. Việc chọn lựa tâm điểm này làm cho cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa cộng sản trở thành cụ thể và có sức thuyết phục hơn: Người ta chống lại Cộng sản không phải vì nó là Cộng sản mà vì nó độc tài. Sự độc tài chỉ có thể có hiệu lực khi Cộng sản nắm chính quyền một cách độc tôn. Nếu đảng Cộng sản chỉ tồn tại như bao nhiêu đảng phái chính trị khác, nó hoàn toàn vô hại. Hơn nữa, sự có mặt của nó còn chứng minh tính chất tự do của một chế độ dân chủ. Nhớ đến điều này chúng ta hiểu tại sao trong thời chiến tranh lạnh, ở phần lớn các quốc gia Tây phương, một mặt người ta chủ trương chống Cộng, mặt khác, người ta vẫn cho phép các đảng Cộng sản được hoạt động một cách công khai (thật ra, một số quốc gia, trong đó có Úc, từng có kế hoạch loại đảng Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, nhưng nghị quyết của đảng cầm quyền bị Tòa án Tối cao bác bỏ với lý do nó vi phạm nguyên tắc về tự do tư tưởng và chính trị đã được ghi trong Hiến pháp).

Có thể nói, chiến thắng của Tây phương trong cuộc Chiến tranh lạnh vào cuối thế kỷ 20 thực chất là chiến thắng của cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa toàn trị.

Chiến thắng ấy bắt đầu từ một thay đổi mang tính chiến lược: Từ chống Cộng sản đến chống toàn trị.

Xin lưu ý chữ “tính chiến lược” ở trên.

Giấc mộng tồi



           Hãy chạy nữa đi hỡi dục ôi !
         Bao nhiêu sức đổ ở trên đồi.
         Tiền tài danh vọng thân mòn mỏi,
         Con cháu gia đình tiếng đãi bôi.
         Sáng khởi tối tàn dăm bạc hưởng,
         Ngày lo đêm nghĩ dạ đầy vơi.
         Trăm năm chỉ bấy nhiêu dòng sống,
         Chảy mãi khổ vui giấc mộng tồi.

                                            Nguyễn Lộc

Thứ Hai, 13 tháng 5, 2013

Huyền thoại anh hùng Cộng sản sụp đổ



      Huyền thoại khi xưa đã lộ ra,
    Anh hùng thời vận hoá gian tà.
    Tham tiền cướp của lên rừng núi,
    Cầm súng biểu dương cứu nước nhà.
    Đâu phải yêu thương choTổ Quốc,
    Chỉ vì đố kỵ lấy danh xa.
    Rước Tàu chống Mỹ mua quyền quí,
    Vô dụng bất tài một lũ ma
                                         Nguyễn Lộc

Thứ Bảy, 11 tháng 5, 2013

Hận đời lưu lạc



            Mùa hạ mưa buồn lên khoé mắt,
          Gót chân lưu lạc giữa ngàn khơi.
          Thời gian hờ hững trôi xuôi mãi,
          Non nước âu sầu khóc tả tơi.
          Cứ ngỡ tháng tư thôi chuốt oán,
          Nào ngờ thuở ấy hận không nguôi.
          Hoà bình chỉ có yên bom đạn,
          Biết đến bao giờ hết lệ rơi.

                                           Nguyễn Lộc
          
  

Thứ Năm, 9 tháng 5, 2013

kông kông - Như thế nào là chống cộng quá khích


kông kông

Trong “Thư tâm tình gửi các bạn chống cộng quá khích” của Nguyễn Thành Công – DL [1] phần mào đầu bài viết, câu cuối, như ri: “.. nếu bạn không phải là những người chống cộng quá khích thì không nên đọc.”  Vậy, bất cứ ai lỡ đọc thì chớ lên tiếng, vì lên tiếng, dù khen/chê, đều tự tố cáo mình cùng giuộc với “chống cộng quá khích”!  Hãy để một mình tác giả giảng về nó thôi!


Trong bóng đá, môn thể thao người VN ưa thích, nếu đã để thua trước 0-1 thì chỉ còn con đường ráng gỡ hòa chứ nói thắng thì hơi bị mệt!  Cho nên ngồi gõ những dòng nầy (theo như mào đầu của tác giả) thì chắc tôi đang tự xác nhận mình thuộc giuộc “chống cộng quá khích”.  Và, như thế là đã bị thua 0-1, bây giờ chỉ còn nước ráng gỡ huề là may  huhuhu..!

Đặt bạn đọc ngay trong giây phút đầu tiên của “trận đấu” đã ở vào thế “bị thua” thì thử hỏi tác giả có phải là người quá khích hay cực đoan không?  Mà quá khích, hay cực đoan, thì làm sao lý để người khác nghe theo? 

Một tuần nay chưa thấy ai mắc bẫy “chống cộng quá khích” tác giả giăng ra, nên tôi đành tự sụp bẫy bằng bài trao đổi nầy!   

Nội hàm bài viết không có gì lạ.  Đại khái:  Chính phủ/chế độ như con thuyền.  Dân như nước.  Chế độ lo cho dân thì nước làm nổi thuyền.  Nhưng bỏ dân thì sóng sẽ nhận chìm thuyền!  Đứng trước nạn phe phái, nhóm đặc lợi đặc quyền bỏ dân nên nhà cầm quyền CSVN đang bị phản đối.  Tác giả nằm trong số nầy “vì là nạn nhân của bất công”!  

Chống thì chống nhưng, theo tác giả, chống mà không rơi vào “chống cộng quá khích”!  Vì “chống cộng quá khích” vô hình trung làm hại nhiều người tích cực đang đứng trong mũi nhọn của cuộc đấu tranh”!   

“Tôi nghĩ tâm nguyện của các bạn chống cộng quá khích chỉ muốn mang lại những điều tốt đẹp cho đất nước chứ không hề định cản trở cuộc đấu tranh của nhân dân. Nhưng các bạn nóng lòng sốt ruột, đặt ra những yêu cầu “quá khích”, nếu ai không đồng ý thì các bạn tập trung “ném đá” dữ dội, vô hình trung làm hại nhiều người tích cực đang đứng trong mũi nhọn của cuộc đấu tranh.” (Trích)

Như vậy chống cộng như thế nào để không bị chê là quá khích?  

Thử nêu một số trường hợp.  

Chuyện cũ, nên bỏ qua như:

Từ sau ngày 30/4/1975, Đảng và nhà nước CHXHCNVN ra rả gọi chế độ VNCH là “bọn Mỹ-Ngụy ác ôn”, “bọn tay sai bán nước”, những người bỏ chạy ra nước ngoài là “bọn ôm chân đế quốc”, “bọn ăn bơ thừa sữa cặn”, nghĩa trang Quân Quân Đội Biên Hòa của binh sĩ miền Nam bị hoang phế, cấm ngặt người vãng lai hương khói (đến người chết cũng không tha!) mãi cho đến mới đây…!   

Chuyện bây giờ, cũng chỉ đại khái như: 

Đất đai, mồ mả tổ tiên của nông dân Văn Giang bỗng biến thành đất của nhóm lợi ích.  Công an + xã hội đen + dân phòng thẳng tay đàn áp cưỡng chế, bất chấp dư luận thế giới, lại vô tình đánh phù mặt 2 phóng viên báo “phe ta” rồi “xử lý nội bộ”, ếm nhẹm êm thấm!

Anh em gia đình ông Đoàn Văn Vươn, ra công quai đê lấn biển mười mấy năm, tiền vay ngân hàng để đầu tư còn sờ sờ ra đó thế mà khi đầm Cống Rộc đã tạm ổn định, có lợi tức tốt thì phe cánh nhà nước Tp Hải Phòng ra tay cưỡng chế và được ông Đại tá Giám đốc công an thành phố Đỗ Hữu Ca ca ngợi “cuộc phối hợp binh chủng giữa công an + bộ đội + dân phòng hay đến nổi có thể viết thành sách”!

Giáo dân Cồn Dầu ở Đà Nẵng, đã có lịch sử hơn cả trăm năm lập nghiệp, bỗng chốc cả làng bị cướp đuổi đi mà không biết kêu cứu với ai!

Những người dân bình thường, chẳng có bệnh tật bẩm sinh gì, lại đang khỏe mạnh, không nhức đầu sổ mũi nhưng khi bị công an bắt về đồn bỗng dưng ngã lăn ra “chết bệnh” hay “ân hận nên tự tử” (!)  Có trường hợp trước khi tự tử còn viết thư khen công an đối xử tử tế (trường hợp anh Nguyễn Công Nhựt ở Bình Dương)…  

Câu hỏi: 

Nếu tác giả là thân nhân của những nạn nhân nêu trên, tác giả sẽ có thái độ như thế nào?  Sẽ dùng loại ngôn ngữ nào với Đảng và chế độ CSVN, một chế độ công-an-trị (!)  không thèm đếm xỉa đến luật lệ do chính họ đặt ra, không thèm đếm xỉa đến tiếng kêu của dân oan, không thèm đếm xỉa đến quyền sống của một con người!  (Pano “Công an chỉ biết còn Đảng còn mình” nói lên tất cả!)

Rất mong tác giả Lá thư cho ý kiến chuẩn mực về những vấn đề trên để người đọc biết ứng xử mà khỏi mang tiếng “quá khích” hay “cực đoan”! 


Chuyện vừa nêu trên chỉ nhỏ thôi!  Còn chuyện bên dưới thì quan trọng hơn nhiều.  

Đó là:  Làm sao xác minh được sự chửi rủa thô tục, sắt máu, gây thù hận, gây chia rẽ tình tự dân tộc trên các diễn đàn đều là của người Việt chống cộng?  Loại “Chống cộng quá khích”, “hùa nhau ném đá” nầy là ai?

Trước thực trạng thối nát, tha hóa về mọi mặt của chế độ CSVN, đã có không ít những đảng viên kỳ cựu thuộc hàng cao cấp lên tiếng phản đối từ mười mấy năm trước, thời Tướng Trần Độ, Nguyễn Hộ, Nguyễn Văn Trấn…hay hiện tại như Nguyễn Trọng Vĩnh.  Vì thế, nội bộ đang cầm quyền của đảng CSVN càng ngày càng chia rẽ, công khai đấu đá tranh giành quyền lực, lợi lộc bất kể sự tồn vong của tổ quốc!  

Con đường sinh tử hiện tại của họ là phải cố gắng kéo dài sự thống trị.  Và muốn kéo dài thì không gì khác hơn là phải gây ra sự sợ hãi tột cùng cho người dân, cho đảng viên có ý chống đảng!  “Là suy thoái thiếu lập trường chớ gì nữa” như lời TBT Nguyễn Phú Trọng cảnh báo.  Sự sợ hãi đó là, nếu họ không trung thành thì không chết về tay Đảng cũng sẽ chết vì sự căm thù của dân chúng!  Đảng viên đàng nào cũng phải đối mặt với cái chết!  Vì thế cách tốt nhất là lo bảo vệ Đảng, để ngày nào Đảng còn thì gia đình và bản thân còn hưởng đặc quyền đặc lợi!  

Đảng còn, còn tất cả.  Đảng mất, mất tất cả!

Muốn cho đảng viên sợ hãi và trung thành thì cách tốt nhất là cho hàng ngàn “dư luận viên” đội lốt chống cộng cực đoan, chửi rủa, gây căm thù giữa người nầy với người khác, giữa dân với cán bộ đảng viên, giữa nhóm nầy với nhóm khác, giữa quốc nội với hải ngoại!  Đọc loại ngôn ngữ côn đồ, sắt máu đó thì người bình thường cũng phải nhăn mặt, ngán ngẫm, sợ hãi, nói chi đến ủng hộ!  Vì thế hình ảnh của những người chống chế độ CSVN ôn hòa, thật sự dấn thân cho tự do dân chủ đất nước bỗng trở thành xấu xa, hạ cấp!  Ủng hộ họ là cùng một giuộc với bọn mất dạy!  

Một công hai ba chuyện như thế đều nhắm vào mục đích bảo vệ Đảng, tại sao đảng CSVN không làm?

Đọc truyện Tam Quốc, một lần Khổng Minh cho đóng quân ở mé sông, trái ngược với binh pháp, là không có đường tẩu thoát, vì Khổng Minh biết quân mình đang yếu thế,  đàng nào cũng chết nên Khổng Minh mới đưa quân sĩ vào thế phải tử chiến.  Chỉ có thắng trận mới bảo vệ được mạng sống.  CSVN với đảng viên bây giờ cũng như thế!  

Cứ tạo ấn tượng là người VN đang căm thù họ và cả gia tộc.  Tất cả sẽ bị sát hại hay đọa đày nếu để chế độ CSVN sụp đổ!  Vì thế chỉ còn con đường duy nhất là phải “trung với Đảng”!

Đây là cách mà đảng CSVN đang trang bị tinh thần quyết tử cho đảng viên và gia đình dòng họ trước chính nghĩa đòi dân chủ tự do!  Vì thế trong bản Dự thảo sửa đổi HP 1992,  đảng CSVN quyết đặt 3 chữ Quân đội “trung với Đảng” thay vì “trung với nước” như tất cả các nước dân chủ trên thế giới!  

Như vậy thì ai mới thật sự là kẻ “chống cộng quá khích” hay “chống cộng cực đoan” và tại sao cụm từ nầy thường được nhắc đến!

Dù giai đoạn hiện tại không phải là giai đoạn hài tội để gây chia rẽ dân tộc!  Không phải là giai đoạn khích bác nhau “chống cộng quá khích” hay “chống cộng cực đoan”!  Trái lại, là giai đoạn mà người VN phải ngồi lại với nhau, xóa bỏ hận cốt nhục tương tàn đã qua, để tìm ra phương hướng giải cứu đất nước!  

Chủ nghĩa cộng sản và đảng CSVN là nguyên nhân chính đưa dân tộc đến thảm họa hiện tại, nhưng đó là vấn đề của lịch sử.  Và đã là lịch sử thì hãy để lịch sử phán xét!  

Hiện tại, sự đoàn kết của người VN yêu nước phải là mục tiêu tối thượng!  Vì đất nước và dân tộc!  Cũng vì tương lai của đất nước và dân tộc nên không thể viện dẫn bất cứ lý do gì để không đoàn kết với những anh em đã từ bỏ con đường cộng sản!  

Đấy là điều đảng CSVN đang lo sợ nhất!

Cho nên, thiển nghĩ, những chữ “chống cộng quá khích” hay “chống cộng cực đoan” chỉ nên dành riêng cho nhà nước CSVN!  Để khi họ dùng đến nó chúng ta biết họ là ai và tại sao họ dùng nó.  

Hễ ai dùng nó chúng ta nhận diện được đó là người đang chia rẽ dân tộc!

Trở lại với nội dung của tác giả về “Thư tâm tình gửi các bạn chống cộng quá khích”. 

Loại ngôn ngữ thô lỗ từ Thủ đô Hà Nội như “cháo chửi”, “phở chửi”, “đ..m..” tràn lan.  Xã hội ngày một hung dữ.  Tội phạm hình sự kinh khiếp, ngày một nhiều.  Tất cả những sự kiện đó đến từ đâu?  Gốc rễ từ loại văn hóa nào?  Không lẽ đã 38 năm trôi qua mà vẫn còn do hậu quả chiến tranh, do văn hóa “Mỹ-Ngụy” để lại?  Vậy ngôn ngữ “chống cộng quá khích” tự nó có thể cho biết điểm xuất phát! 

Nếu vợ con tác giả bị công an bắt đem về đồn lột trần truồng và quay phim, nói là để “kiểm soát” (trường hợp của cô Nguyễn Hoàng Vi xảy ra hôm tòa xử vụ án Điếu Cày)  Hay như đang xảy ra, ngày “Dã ngoại thảo luận quyền con người” mà cả gia đình cô đang phải hứng chịu!  Bị đánh đập tàn nhẫn, máu me, răng gãy, trán bị gí thuốc điếu đang cháy..  Nếu là tác giả thì sẽ phản ứng ra sao?  

Những sự thật như thế nên dùng loại ngôn ngữ nào để khỏi bị rơi vào giuộc “chống cộng quá khích”?  

Phải chăng nội hàm chính của “Thư tâm tình” là tất cả mọi người hãy giữ bình tỉnh, đừng gây xúc động mạnh đến xã hội vì như thế rất dễ sinh ra biến động.  Hãy để nhà nước “ta” từ từ sửa sai, vì phải lo ưu tiên về “giữ vững ổn an ninh để phát triển kinh tế”?  Chống cộng nhưng “không cực đoan”, “không quá khích” để khỏi làm ảnh hưởng đến “nhiều người tích cực đang đứng trong mũi nhọn của cuộc đấu tranh” như tác giả?

Sự thật là phải nói trung thực sự kiện.  Thí dụ như bản mặt của chế độ CSVN đã phơi bày rõ ràng qua hành động công an giết người ngay tại đồn, công an lột trần truồng cô Nguyễn Hoàng Vi để quay phim “kiểm soát”!  

Nói như thế có phải là “chống cộng quá khích” không?

(May 7th, 2013)