Thứ Bảy, 8 tháng 6, 2013

Cánh hoa về nguồn



          Tiếng mưa rơi nhịp buồn xa vắng,
          Cánh hoa tàn tim nát ly tan.
          Lặng nghe giây phút bàng hoàng ,
          Hoa hồng thương nhớ theo làn khói bay.
          Nhẹ gió cuốn lung lay tình lỡ,
          Bóng thời gian thắp nến bên bờ.
          Còn đâu năm tháng đợi chờ,
          Người xưa tình cũ lững lờ đâu đây.
          cõi vô thường tình dầy sương gió,
          Kiếp luân hồi nặng nợ bốn phưong.
          Đưa người về với cội nguồn,
          Riêng ta lãng đãng ru hồn chiều nay.

                                             Nguyễn Lộc
       
      

Thứ Sáu, 7 tháng 6, 2013

Nguyễn Hưng Quốc - Xây dựng lòng tin chiến lược


Nguyễn Hưng Quốc


Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng tại Đối thoại Shangri-La 2013.

 Bài phát biểu “Xây dựng lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng của châu Á” của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại buổi khai mạc Đối thoại Shangri-La 2013 vào ngày 31/5 gây nhiều tranh cãi, đặc biệt trên các diễn đàn mạng. Một số người khen, cho là với bài phát biểu ấy, Nguyễn Tấn Dũng chứng tỏ có một tầm nhìn khá có tính chiến lược. Một số người khác chê là ông nói toàn những sáo ngữ trống rỗng, không dám trực diện với những vấn đề trầm trọng mà Việt Nam đang phải đối đầu với Trung Quốc.

Trước hết, ông Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh tầm quan trọng của lòng tin: “nếu không có lòng tin thì không thể thành công, việc càng khó càng cần có niềm tin. Việt Nam chúng tôi có câu thành ngữ ‘mất lòng tin là mất tất cả’. Lòng tin là khởi nguồn của mọi quan hệ hữu nghị, hợp tác; là liều thuốc hiệu nghiệm để ngăn ngừa những toan tính có thể gây ra nguy cơ xung đột. Lòng tin cần được nâng niu, vun đắp không ngừng bằng những hành động cụ thể, nhất quán, phù hợp với chuẩn mực chung và với thái độ chân thành.”

Sau đó, ông điểm qua tình hình chính trị của vùng Đông Nam Á và cả Châu Á - Thái Bình Dương nói chung: Trong quá khứ, đó là một “chiến trường ác liệt, bị chia rẽ trong suốt nhiều thập kỷ”; trong hiện tại, nó đối diện với nhiều nguy cơ và thử thách, trong đó, quan trọng nhất là “Đâu đó đã có những biểu hiện đề cao sức mạnh đơn phương, những đòi hỏi phi lý, những hành động trái với luật pháp quốc tế, mang tính áp đặt và chính trị cường quyền.” Ông cảnh báo: nếu những nguy cơ ấy bùng nổ thành xung đột quân sự thì hậu quả sẽ là “không có kẻ thắng người thua - mà tất cả cùng thua”. Cuối cùng, ông kết luận: “Vì vậy, cần khẳng định rằng, cùng nhau xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng là lợi ích chung của tất cả chúng ta. Đối với Việt Nam chúng tôi, lòng tin chiến lược còn được hiểu trên hết là sự thực tâm và chân thành.”

Nhưng vấn đề là: Làm thế nào để xây dựng lòng tin chiến lược? Nguyễn Tấn Dũng đề nghị: “cần tuân thủ luật pháp quốc tế, đề cao trách nhiệm của các quốc gia - nhất là các nước lớn và nâng cao hiệu quả thực thi của các cơ chế hợp tác an ninh đa phương.” Sau đó, ông giải thích thêm: “Trong thế giới văn minh ngày nay, Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và các nguyên tắc, chuẩn mực ứng xử chung đã trở thành giá trị của toàn nhân loại cần phải được tôn trọng. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để xây dựng lòng tin chiến lược.”

Nhiệm vụ xây dựng lòng tin chiến được chia đều cho mọi quốc gia trong khu vực, nhưng ông Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh vào vai trò của hai cường quốc có trách nhiệm lớn nhất trong khu vực: Mỹ và Trung Quốc. Ông nói: “Chúng ta đặc biệt coi trọng vai trò của một nước Trung Hoa đang trỗi dậy mạnh mẽ và của Hoa Kỳ - một cường quốc Thái Bình Dương. Chúng ta trông đợi và ủng hộ Hoa Kỳ và Trung Quốc khi mà các chiến lược, các việc làm của hai cường quốc này tuân thủ luật pháp quốc tế, tôn trọng độc lập chủ quyền của các quốc gia, vừa đem lại lợi ích cho chính mình, đồng thời đóng góp thiết thực vào hòa bình, ổn định, hợp tác và thịnh vượng chung.”

Phần kết luận, ông khẳng định chính sách quốc phòng của Việt Nam: “Việt Nam không là đồng minh quân sự của nước nào và không để nước ngoài nào đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam không liên minh với nước này để chống lại nước khác.”

Đọc bài phát biểu của ông Nguyễn Tấn Dũng, tôi có mấy nhận xét chính:

Thứ nhất, đó là một bài phát biểu khá “an toàn”. An toàn hiểu theo hai nghĩa: Một, nó không trở thành một đề tài để mọi người chế giễu, coi như một dấu hiệu của tâm thần (như các bài phát biểu của các nhà lãnh đạo Việt Nam khác ở ngoại quốc, chẳng hạn, bài phát biểu của Chủ tịch Nguyễn Minh Triết về vai trò của Việt Nam và Cuba vốn đã trở thành một chuyện tiếu lâm trong dân gian hay của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng về sự khác biệt giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội tại Cuba vào đầu tháng 4 năm 2012, một bài phát biểu “phản cảm” đến độ Tổng thống Dilma Rousseff phải hủy bỏ lời mời ông Nguyễn Phú Trọng thăm Brazil vào phút chót!). Hai, nó cũng tránh được nguy cơ trở thành một đối tượng để mọi người mổ xẻ, phê phán, có thể gây nhiều tranh cãi bất lợi.

Thứ hai, để tránh hai nguy cơ trên, Nguyễn Tấn Dũng và dàn tham mưu của ông đã chọn một biện pháp đơn giản và thiếu sáng tạo nhất: nói lại những điều đã nhiều người nói và hầu như ai cũng biết. Theo dõi báo chí quốc tế, hầu như ai cũng thấy ý niệm “lòng tin chiến lược” (strategic trust) đã được rất nhiều nhà lãnh đạo đề cập.

Gần với cuộc Đối thoại Shangri-La 2013 nhất, trong cuộc Đối thoại Quốc phòng Quốc tế được tổ chức tại Jakarta kéo dài hai ngày vào giữa tháng 3 năm 2013, trước sự hiện diện của 1.300 viên chức và quan sát viên đến từ 38 quốc gia trên thế giới, Tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono của Indonesia đã có bài thuyết trình dài về lòng tin chiến lược. Ông cũng nhấn mạnh việc xây dựng lòng tin chiến lược là nhu cầu khẩn thiết để bảo đảm an toàn và an ninh thế giới, trước hết, để giải quyết các mâu thuẫn liên quan đến chủ quyền của các nước ở Nam Hải (South China Sea). Để xây dựng lòng tin chiến lược, ông cũng kêu gọi các nước, trước hết, phải chấp hành và tuân thủ các nguyên tắc ứng xử trên biển (South China Sea Code of Conduct) đã được thỏa thuận.

Đọc, cứ ngỡ như tình báo của Yudhoyono đã ăn cắp được trước bài nói chuyện của Nguyễn Tấn Dũng!

Thật ra, Yudhoyono cũng chẳng nói được điều gì mới. Trên thế giới, những năm gần đây, người nói nhiều nhất đến chuyện xây dựng lòng tin chiến lược giữa các nước, oái oăm thay, lại là giới lãnh đạo Trung Quốc. Tháng 8 năm 2009, trong cuộc họp tại New Dehli, Bộ Ngoại giao Trung Quốc nhấn mạnh công việc cần thiết nhất giữa Trung Quốc và Ấn Độ là phải xây dựng lòng tin chiến lược.

Ngày 27/3/2013, trong cuộc gặp gỡ với Thủ tướng Manmohan Singh, Chủ tịch Tập Cận Bình cũng nhấn mạnh đến lòng tin chiến lược; hai tháng sau, ngày 20/5/2013, trong chuyến viếng thăm Ấn Độ, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường lại nhấn mạnh lần nữa đến việc xây dựng lòng tin chiến lược giữa hai nước.

Trong chuyến thăm Mỹ vào tháng 2 năm 2012, Tập Cận Bình, lúc ấy còn là Phó chủ tịch nước, cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của lòng tin chiến lược trong quan hệ quốc tế: “Với chúng tôi, lòng tin chiến lược là nền tảng của sự hợp tác để hai bên cùng có lợi, và lòng tin càng lớn, sự hợp tác càng rộng rãi.”

Tháng 4 năm 2013, tiếp một phái đoàn quân sự cao cấp của Mỹ tại Bắc Kinh, Tập Cận Bình cũng lại nói về lòng tin chiến lược.

Có thể nói, cho đến nay, người đề cập nhiều nhất đến khái niệm lòng tin chiến lược là Trung Quốc, chủ yếu trong quan hệ giữa họ với Ấn Độ và đặc biệt, với Mỹ. Liên quan đến đề tài này, bài viết hay nhất tôi đọc được là bài nói chuyện của Kevin Rudd, cựu Thủ tướng Úc, tại Washington vào ngày 2 tháng 4 năm 2013. Ông cho trong quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc hiện nay, vấn đề quan trọng và cấp thiết nhất là xây dựng được lòng tin chiến lược. Để làm được điều đó, ông đề nghị cùng nhau xây dựng một lộ trình chiến lược (strategic roadmap) để giải quyết từng bước các tranh chấp giữa hai nước, trước hết, bằng cách thay thế loại ngôn ngữ đối đầu bằng ngôn ngữ hợp tác, thường xuyên tổ chức các cuộc gặp gỡ cấp cao, v.v..

Trở lại bài nói chuyện của Nguyễn Tấn Dũng. Khi lặp lại những vấn đề giới lãnh đạo Trung Quốc đã nói đi nói lại trên khắp các diễn đàn quốc tế, Nguyễn Tấn Dũng không những bộc lộ việc thiếu sáng kiến mà còn, nguy hiểm hơn, ông vấp phải một khuyết điểm thứ ba: nói những điều sáo rỗng khi không mang lại cho khái niệm lòng tin chiến lược một nội dung cụ thể nào trong bối cảnh tranh chấp ở Biển Đông cả. Thiếu những nội dung cụ thể như thế, bài nói chuyện của ông không khác gì mấy với những bài luân lý giáo khoa thư dùng để dạy cho học trò. Làm như vậy, ông đánh mất một cơ hội để đóng vai trò chủ đạo trong việc giải quyết các tranh chấp trong khu vực, lại là khu vực gần gũi với Việt Nam nhất.

Trong chính trị, đối nội cũng như đối ngoại, để tạo và giữ được lòng tin, cần có nhiều điều kiện, trong đó, có hai điều kiện nổi bật lên hàng đầu là: Một, bản thân mình phải giữ chữ tín; và hai, phải có sự minh bạch trong cả chính sách lẫn trong hành động.

Không thể đòi hỏi người khác phải tin mình khi chính mình lại không đáng tin. Ở khía cạnh này, lòng tin trong chính trị đối nội sẽ là cơ sở để xây dựng lòng tin trong chính trị đối ngoại. Tại sao giữa các quốc gia dân chủ ở Tây phương, người ta có thể tin cậy và xây dựng liên minh chặt chẽ với nhau một cách dễ dàng trong khi giữa các nước độc tài hoặc giữa các nước độc tài và các nước dân chủ, điều đó lại trở thành khó khăn, hầu như không thể thực hiện được?

Câu trả lời rất đơn giản: Một kẻ thường xuyên lươn lẹo với dân chúng ở nước họ thì không thể “thực tâm và thành thực” (chữ của Nguyễn Tấn Dũng) trong quan hệ với nước ngoài được. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên khi bàn đến bài nói chuyện về lòng tin chiến lược của Nguyễn Tấn Dũng, nhiều nhà báo và blogger Việt Nam liên hệ ngay đến các vụ đàn áp hoặc tuyên truyền giả dối của chính quyền Việt Nam ở trong nước: Trên diễn đàn quốc tế, Thủ tướng kêu gọi tôn trọng các giá trị và chuẩn mực chung mà mọi người trong “thời đại văn minh” đều tôn trọng thì ở trong nước, chính phủ của ông lại bắt bớ, đánh đập, bắt bỏ tù vô số người dân vô tội chỉ vì họ lên tiếng chống lại Trung Quốc hoặc đòi hỏi những quyền làm người căn bản nhất.

Một điều kiện khác cho lòng tin là sự minh bạch (transparency). Nguyên nhân chính khiến thế giới không tin Trung Quốc là vì ở Trung Quốc hoàn toàn không có sự minh bạch, ngay cả sự minh bạch trong ngân sách, đặc biệt ngân sách quốc phòng. Đó chính là sự khác biệt căn bản giữa Mỹ và Trung Quốc trong vấn đề xây dựng lòng tin chiến lược: Với Mỹ, muốn có lòng tin, cần phải có, trước hết, sự minh bạch; Trung Quốc, ngược lại, cho sự minh bạch là phó sản (by-product) của lòng tin chiến lược, nghĩa là: Hãy tin họ trước, từ từ họ sẽ minh bạch sau! 

Với cả hai điều kiện trên, uy tín và sự minh bạch, cả Việt Nam lẫn Trung Quốc đều không có. Thiếu hai điều kiện căn bản ấy, việc kêu gọi lòng tin giữa hai nước chỉ là một trò đùa.

Trò đùa ấy dễ trở thành một sự lố bịch khi những kẻ hoàn toàn không có uy tín về lòng tin lại kêu gọi người khác phải giữ lòng tin!

Nghe, giống như nghe bà Phó Đoan (trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng) nói về đức hạnh và trinh tiết.

Chủ Nhật, 2 tháng 6, 2013

Tiếng hạ buồn !

 

         Nắng hạ ơi! đã bao mùa xa xứ,
         Nét em cười còn đó những ngày vui,
         Xe nhanh chân đạp lướt chốn đông người;
         Chiều thứ bảy còn đây thời thơ dại.
         Góc phố nghiêng nghiêng thường qua lại,
         Tay trong tay quên cả tiếng thời gian;
         Trọn đường tình ru mãi một âm vang,
         Nhành phượng vĩ chú ve sầu than thở.
         Giả từ hương yêu,ghế đá sân trường,
         Tà áo trắng ,tóc xanh còn sắc thắm.
         Ôi ly loạn !đã tàn mùa chinh chiến,
         Nước mắt vẫn rơi tiễn đôi lứa xa nhau;
         Rơi thêm nữa cho hết những khổ đau ,
         Sợi tóc mềm cũng phai màu nhung nhớ .

                                                  Nguyễn Lộc
  
        

Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2013

Nguyễn Hưng Quốc - Tình hình và xu hướng chính trị tại Việt Nam hiện nay


Nguyễn Hưng Quốc


Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (trái)
và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.

Theo dõi tình hình chính trị Việt Nam, hầu như giới quan sát, từ người Việt đến người ngoại quốc, đều đi đến kết luận giống nhau: Chưa bao giờ Việt Nam yếu như hiện nay.

Tuy nhiên, nói đến cái yếu của Việt Nam, phần lớn đều tập trung vào quan hệ đối ngoại, chủ yếu giữa Việt Nam và Trung Quốc. Có thể nói, ở châu Á, không có nước nào bị Trung Quốc “ăn hiếp” nhiều như Việt Nam. Với Nhật Bản hay Philippines, họ chỉ dòm ngó một hai hòn đảo; với Việt Nam, họ dòm ngó cả chùm đảo và cả một vùng biển mênh mông. Với các nước khác, lâu lâu họ đưa tàu đánh cá hay tàu hải giám lượn qua lượn lại vài vòng thị uy; với Việt Nam, họ tung tàu đánh cá và tàu hải giám ào ạt như vào chỗ không người, hơn nữa, còn bắt bớ, thậm chí, hãm hại cả ngư dân Việt Nam. Cũng có thể nói, trước sự đe dọa của Trung Quốc, không có nước nào có phản ứng nhu nhược như Việt Nam. Nhật Bản dám dọa đánh chìm tàu Trung Quốc, Philippines đem Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế, còn Việt Nam? Ngay cả một lời lên án, họ cũng không dám nói; và khi, trước áp lực của dân chúng, phải nói, thì chỉ nói một cách… thì thầm. Vừa lên án vừa run lẩy bẩy.

Tuy nhiên, cái yếu của Việt Nam còn thể hiện ở nhiều lãnh vực khác nữa. Phân tích những cái yếu ấy, chúng ta dễ thấy xu hướng phát triển của tình hình chính trị tại Việt Nam hiện nay.

Trước hết là lãnh đạo yếu.

Nói đến lãnh đạo chủ yếu là nói đến đảng Cộng sản, và nói đến “yếu” là nói đến tương quan quyền lực với các thiết chế khác. Công thức phân quyền ở Việt Nam, ai cũng biết, là “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý”. Suốt hơn nửa thế kỷ, hầu như mọi quyền lực đều nằm trong tay đảng. Còn nhà nước, như chính lời thú nhận của Phạm Văn Đồng, người làm Thủ tướng lâu nhất ở Việt Nam (1955-1987), với những người quen: Chưa có ai làm Thủ tướng lâu mà bất lực như ông. Ông không những bị lép vế trước Lê Duẩn, Tổng Bí thư, mà còn bị lép vế cả trước Lê Đức Thọ, Trưởng ban Tổ chức Trung ương đảng. Là Thủ tướng, Phạm Văn Đồng hoàn toàn không có quyền hạn gì trong việc chọn lựa, bổ nhiệm hoặc cách chức các Bộ trưởng hay Thứ trưởng, thậm chí, các giám đốc Sở ở địa phương. Quyền lực tập trung hết trong tay giới lãnh đạo đảng, chủ yếu là Tổng Bí thư. Tuy nhiên, sau Lê Duẩn, rõ ràng quyền lực của Tổng Bí thư cứ giảm dần. Quyền lực của các Tổng Bí thư kế tiếp Lê Duẩn, từ Trường Chinh (14/7/1986-18/12/1986) đến Nguyễn Văn Linh (1986-1991) và Đỗ Mười (1991-1997), không thể so sánh được với Lê Duẩn. Tuy nhiên, dù vậy, họ vẫn giống như những ông vua. Yếu thế, nhưng vẫn là vua. Chỉ từ Lê Khả Phiêu (1997-2001) trở đi, quyền lực của Tổng Bí thư mới bắt đầu mờ nhạt. Hơn nữa, càng lúc càng mờ nhạt. Nông Đức Mạnh (2001-2011) mờ nhạt hơn Lê Khả Phiêu. Đến nay, mờ nhạt nhất là Nguyễn Phú Trọng, người được lên làm Tổng Bí thư từ ngày 19 tháng 1 năm 2011.

Vai trò mờ nhạt của Nguyễn Phú Trọng thể hiện rõ nhất là qua hai lần thua cuộc trước Nguyễn Tấn Dũng. Lần thứ nhất, ở hội nghị Trung ương 6 vào tháng 10 năm 2012, khi Nguyễn Phú Trọng liên kết với Trương Tấn Sang tấn công Nguyễn Tấn Dũng - người được gọi là “đồng chí X” -, nhưng cuối cùng, cả hai đều thất bại. Lần thứ hai, mới đây, ở hội nghị Trung ương 7 vào đầu tháng 5/2013, Nguyễn Phú Trọng lại thất bại trước Nguyễn Tấn Dũng lần nữa khi đề nghị đưa Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ vào Bộ Chính trị nhưng bị Trung ương đảng bác bỏ. Thế vào đó, Nguyễn Thiện Nhân và Nguyễn Thị Kim Ngân được bầu. Cả hai đều là người của Nguyễn Tấn Dũng.

Có thể nói, trong lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam, chưa bao giờ có một Tổng Bí thư nào lại thua cuộc một cách thê thảm và nhục nhã đến như vậy.

Nhưng việc Tổng Bí thư và cùng với ông, cả cái Đảng do ông lãnh đạo yếu thế và việc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chứng tỏ quyền lực mạnh mẽ của mình như vậy có làm cho chính phủ mạnh hơn không?

Không.

Thủ tướng mạnh. Nhưng chính phủ vẫn yếu. Nguyễn Tấn Dũng mạnh đủ để thoát các đòn tấn công hiểm hóc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nhà nước Trương Tấn Sang, nhưng chính phủ do ông cầm đầu, trên nguyên tắc, vẫn phải được lãnh đạo bởi đảng. Các chính sách lớn vẫn do đảng quyết định.

Như vậy, ở đây, chúng ta thấy một nghịch lý: Người có chức năng lãnh đạo thì yếu; còn người mạnh lại không thể lãnh đạo. Hậu quả là ở Việt Nam hiện nay, giới cầm quyền, từ đảng đến chính phủ, chỉ quản lý (management) chứ không hề có lãnh đạo (leadership). Sự khác biệt căn bản giữa quản lý và lãnh đạo là với quản lý, người ta chỉ làm theo mệnh lệnh và chỉ nhắm tới những mục tiêu ngắn hạn; nhưng khi không có lãnh đạo, người ta vừa không có tầm nhìn xa lại vừa không có mệnh lệnh cụ thể để thực hiện. Một nền quản lý thiếu lãnh đạo bao giờ cũng vừa thiển cận vừa lúng túng, vá víu và đầy mâu thuẫn. Chúng ta có thể thấy rõ những điều đó qua các chính sách và cung cách làm việc của nhà cầm quyền Việt Nam những năm gần đây. Rõ nhất là qua cuộc thảo luận về thay đổi Hiến pháp do chính họ đề xướng. Thoạt đầu, bảo không có vùng cấm trong thảo luận; sau, lại lên án kịch liệt những người kiến nghị. Thoạt đầu, hứa hẹn như một sự thay đổi lớn lao; sau, cứ thu hẹp dần lại. Thoạt đầu, định thay đổi cả tên nước; sau, lại loại bỏ ý định ấy, v.v.. Nhưng nguy hiểm nhất là thái độ lúng ta lúng túng của họ trong việc đấu tranh với Trung Quốc để bảo vệ độc lập và chủ quyền lãnh thổ. Ngoài vài lời thề nguyền là sẽ không bán nước, cho đến nay, vẫn không có ai trong giới lãnh đạo phác họa được một chiến lược rõ ràng, chưa nói đến việc có hiệu quả hay không. Một chút rõ ràng cũng không có.

Đảng lãnh đạo yếu, chính phủ cũng yếu, hậu quả tất nhiên là đất nước yếu theo. Tất cả những sự nhu nhược được đề cập ở phần đầu bài viết này đều là hậu quả của hai cái yếu ấy. Ngư dân Việt Nam đi đánh cá ngoài biển cả bị “tàu lạ” đâm chìm, bắt bớ hay giết chết, không có ai can thiệp. Dân chúng hàng ngày phải ăn uống hoặc tiêu dùng những thứ độc hại được nhập cảng chính thức hay qua các con đường không chính thức không hề được ai bảo vệ. Kinh tế ngày càng kiệt quệ, gánh nặng nợ nần trên đầu người dân càng ngày càng chồng chất, không có ai quan tâm. Những người có lòng với đất nước đứng lên chống lại Trung Quốc bị đối xử như tội phạm. Mở các trang báo ngoại quốc, mỗi khi thấy tin tức về Việt Nam, đoán mười lần đến chín lần đúng: tin xấu. Nếu không phải tham nhũng thì là trấn áp.

Đảng yếu, chính phủ cũng yếu. Vậy thì ai mạnh?

Thứ nhất, các phe phái mạnh.

Thật ra, đảng Cộng sản lúc nào cũng có nạn phe phái. Trong hồi ký của mình, Hoàng Tùng, nguyên Bí thư Ban chấp hành Trung ương đảng và Tổng biên tập báo Nhân Dân, giám đốc nhà xuất bản Sự Thật, kể, lúc Hồ Chí Minh còn sống và ngay cả trước mặt Hồ Chí Minh, các thành viên trong Bộ Chính trị cũng không thèm nói chuyện với nhau. Hồ Chí Minh khuyên mấy cũng không được. Nhưng, dù vậy, những sự xung khắc ấy chỉ dừng lại ở phạm vi cá nhân. Không có phe hay nhóm nào dám công khai chống lại phe Lê Duẩn và Lê Đức Thọ. Thành ra, Lê Duẩn và dưới bóng Lê Duẩn, Lê Đức Thọ tha hồ tác oai tác quái. Sau này, các phe phái nổi lên rõ hơn, nhưng không có lúc nào các phe phái lại tấn công nhau một cách công khai như bây giờ. Trước, nếu tranh chấp, hầu như chỉ dừng lại trong phạm vi mấy người trong Bộ Chính trị với nhau; bây giờ, chúng bày ra trước Trung ương đảng gồm cả gần 200 người; hơn nữa, còn tràn ra cả trước quần chúng, dù được ngụy trang dưới mật danh “đồng chí X”.

Thứ hai, vai trò của các nhóm lợi ích. Cần nói ngay, ở nước nào cũng có các nhóm lợi ích luôn tìm cách ảnh hưởng đến các chính sách của nhà nước. Ở các quốc gia dân chủ, các nhóm lợi ích ấy có thể là các nhà tài phiệt, các công đoàn, các tổ chức xã hội dân sự, các hội nghề nghiệp, v.v.. Các nhóm lợi ích ấy thường hoạt động công khai, một cách trực tiếp, dưới hình thức kiến nghị hoặc thậm chí, đình công và biểu tình, hoặc qua trung gian các cơ quan lobby chính thức, chuyên đi ngả tắt. Ở Việt Nam, trước đây, ngay cả sự hiện diện của cái gọi là “nhóm lợi ích” như thế cũng không thể có, thậm chí, không thể tưởng tượng được. Thế nhưng gần đây, các nhóm lợi ích ấy lại phát triển rất mạnh và khuynh đảo cả tình hình chính trị Việt Nam.

Theo Trần Kinh Nghị, chiến thắng của Nguyễn Tấn Dũng đối với Nguyễn Phú Trọng trong hai kỳ hội nghị 6 và 7 của Trung ương đảng vừa qua chính là chiến thắng của nhóm lợi ích đối với nhóm bảo thủ. Mới đây, trong bài “Đổi luật chơi trong đảng”, nhà bình luận chính trị Ngô Nhân Dụng cũng có quan niệm tương tự khi cho lý do chính khiến Nguyễn Tấn Dũng chiến thắng liên tiếp là nhờ biết sử dụng một thứ luật chơi mới: dựa trên tiền.

Thường, để cai trị, người ta sử dụng một trong hai, hoặc cả hai yếu tố: quyền và tiền. Quyền để khai thác lòng sợ hãi; tiền để kích thích lòng tham. Trước, người ta chỉ dùng quyền; bây giờ, người ta dùng cả quyền lẫn tiền. Theo Ngô Nhân Dụng:
“Từ khi làm thủ tướng năm 2006, […] Nguyễn Tấn Dũng tập trung quyền điều động các xí nghiệp quốc doanh vào phủ thủ tướng, thay vì chia quyền cho các “bộ chủ quản” theo lối cũ. Từ đó, người đóng vai thủ tướng tạo cơ hội kiếm tiền cho tay chân của mình; phân phát cơ hội kiếm tiền để mua lòng trung thành của đồng đảng. Các ủy viên Trung Ương Ðảng được chia chỗ trong Hội Ðồng Quản Trị của các doanh nghiệp nhà nước. Các chương trình kinh tế đều nhằm tạo cơ hội kiếm tiền cho những thủ túc chứng tỏ lòng trung thành. Khi người dân Việt Nam nhận thấy cả guồng máy cai trị là một mạng lưới tham nhũng chằng chịt liên kết với nhau, người cầm đầu mạng lưới đó là ông thủ tướng.”

Như vậy, cái mà Trần Kinh Nghị gọi là nhóm lợi ích ấy chủ yếu là những kẻ vừa có quyền vừa có tiền. Sức mạnh của Nguyễn Tấn Dũng so với Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang chính là sức mạnh của nhóm lợi ích vừa có quyền vừa có tiền ấy.

Sự thao túng của nhóm lợi ích ấy dẫn đến hai hệ quả:

Thứ nhất, nó tạo ra một vẻ dân chủ giả, thường được gọi là dân chủ trong nội bộ đảng (intra-Party democracy). Bộ Chính trị đề nghị kỷ luật Thủ tướng, Trung ương đảng bác bỏ: Bộ Chính trị chịu thua. Tổng Bí thư đích thân đề cử Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ vào Bộ Chính trị, Trung ương đảng bác bỏ: Tổng Bí thư chịu thua. Giới quan sát chính trị quốc tế, ở xa, dễ ngỡ đó là dân chủ. Nhưng không phải. Một là, thứ dân chủ nội bộ ấy không biến thành dân chủ xã hội (social democracy). Hai là, nó chỉ là cuộc đấu đá quyền lực trong nội bộ. Chứ không phải là dân chủ.

Thứ hai, sự thắng thế của các nhóm lợi ích vừa có quyền vừa có tiền ấy biến đảng Cộng sản thành một đám mafia không những khuynh loát chính trị mà còn vét kiệt hết tài nguyên của đất nước và tài sản của dân chúng, ngay cả của những người dân chưa ra đời (với số nợ khổng lồ nó tạo ra!).

Điều đáng chú ý là tất cả các hiện tượng trên, từ chuyện đảng và chính phủ yếu đến chuyện phe phái và các nhóm lợi ích mạnh đều cũng xuất hiện ở Trung Quốc. Trong bài “The end of the CCP’s resilient authoritarianism? A tripartite assessment of shifting power in China” đăng trên tạp chí The China Quarterly năm 2012, Cheng Li cũng phân tích các hiện tượng tương tự tại Trung Quốc. Chỉ có hai sự khác biệt lớn. Thứ nhất, ở mức độ: Cũng yếu, nhưng cái yếu của đảng và chính phủ Việt Nam ở mức trầm trọng hơn hẳn ở Trung Quốc. Ở Trung Quốc, quyền hạn của Chủ tịch đảng chưa bao giờ bị thách thức một cách nghiêm trọng như ở Việt Nam. Quyền lực của Tập Cận Bình cũng như của Hồ Cẩm Đào chưa bao giờ lớn bằng Mao Trạch Đông hay Đặng Tiểu Bình nhưng dù sao vẫn nghiêng trời lệch đất; cả Trung ương đảng cũng không dám chống lại. Thứ hai, theo Cheng Li, nhiều nhà phân tích chiến lược tin tưởng: đảng Cộng sản Trung Quốc có thể yếu và càng ngày càng yếu, nhưng đất nước Trung Quốc thì vẫn mạnh.

Còn Việt Nam?

Chính cái mạnh không cưỡng nổi của Trung Quốc là một tai họa cho Việt Nam. Việt Nam càng yếu, cái họa ấy càng lớn.

Những bóng ma cộng sản

 

     Những âm hồn tàn bạo đụt khoét da thịt người,
    Máu đã cạn nguồn rồi không chảy nữa.
    Thân tả tơi rong ruổi bốn phương trời,
    Tìm thiên đường trong cõi đời bịnh hoạn.
    Con người mới mang linh hồn cộng sản,
    Tư tưởng toàn trị hoàng đế lên ngôi,
    Phong kiến trở lại giăng tay gọi mời.
    Trần ích tắc,Lê chiêu Thống rạng ngời.
    "Lê nin,Lê duẩn,Hồ Chí Minh vạn tuế"
    Những linh hồn không đầu thai thoát kiếp,
    Bay phất phơ chiêu hồn kẻ u mê.
    Xã hội định hướng kiểu vua hề,
    Chàng Charllot Chaplin cười ngạo nghễ.
    Tư bản đỏ nối thêm đuôi rạng rỡ;
    Dân chủ cộng nô,kinh tế thị trường,
    Vẫn khua vang chiến tích bạo tàn,
    Cướp nhà,cướp của bán Nước cầu vinh,
    Cùng thay danh hiệu quỷ dữ đổi hình,
    (Việt Nam dân chủ cộng hoà toàn trị !).

                                           Nguyễn Lộc

Nguyễn Hưng Quốc - ‘Khựa’ và ‘Đi chết đi’

Nguyễn Hưng Quốc


Hai biểu ngữ được viết bằng máu trên tấm vải trắng:
“Đi chết đi ĐCS VN bán nước” và “Tàu khựa cút khỏi Biển Đông” (ảnh: Danlambao) 

Nguyễn Phương Uyên bị kết án sáu năm tù giam và ba năm quản chế chỉ vì “tội” tuyên truyền chống lại Trung Quốc và nhà nước Việt Nam. Bằng chứng là một số truyền đơn, và quan trọng nhất, hai biểu ngữ được viết bằng máu trên tấm vải trắng có nội dung như sau:

“Đi chết đi ĐCS VN bán nước”
“Tàu khựa cút khỏi Biển Đông”

Với câu trên, Phương Uyên bị buộc tội “phỉ báng đảng Cộng sản Việt Nam”; với câu dưới, nói những điều “không hay về Trung Quốc”.

Nhìn hai tấm biểu ngữ, được treo trên một hàng rào ở một nơi nào đó, ngay sau lưng Phương Uyên, tôi cứ băn khoăn. Cả hai đều khá lớn; mỗi chiều ít nhất cũng 60-70cm. Nét chữ cũng lớn. Để viết được chừng ấy chữ với kích thước như vậy, cần một lượng máu (dù pha nước đi nữa) khá nhiều. Không thể là máu của chỉ một mình em được. Thế nhưng cách diễn đạt trong hai biểu ngữ ấy lại có vẻ như được trào ra một cách tự phát và đầy cảm tính, của một người không quen sử dụng ngôn ngữ một cách chuyên nghiệp, dù trong lãnh vực tuyên truyền. Kiểu nói “Đi chết đi”, vốn xa lạ với mọi loại văn viết, chỉ thường được nghe trong các lời chửa rủa, có khi là vợ chửi chồng, chồng chửi vợ hoặc cha mẹ chửi con cái. Đó là một lời xua đuổi. Người ta chỉ xua đuổi cái gần mình, vốn gắn liền với mình. Không ai xua đuổi một người lạ hay ở xa. Bởi vậy, lời chửi rủa ấy thường được dùng trong phạm vi gia đình hơn là ngoài xã hội. Cũng bởi vậy, gần đây, nó được dùng như một câu nói có tính chất hài hước, trong các câu chuyện phiếm, thậm chí thành đề tài của hài kịch (do Hoài Linh đóng).

Với câu biểu ngữ “Đi chết đi ĐCS VN bán nước”, Phương Uyên và các bạn của em không hề có ý chống hay tiêu diệt đảng Cộng sản. Họ chỉ muốn nó biến đi cho khuất mắt. Họ đã chán nó đến tận cùng. Chán vì cái khúc “bán nước” ở cuối.

Câu “Tàu khựa cút khỏi Biển Đông” cũng vậy. Nó chả có gì không hay về Trung Quốc cả. Nó chỉ ghi nhận một thực tế: Trung Quốc đang chiếm cứ Biển Đông. Phương Uyên và các bạn chỉ muốn xua đuổi chúng đi.

Hay nhất trong câu ấy là chữ “Tàu khựa”.

Chắc chắn chữ “khựa” là một từ mới, chỉ xuất hiện trong vài năm gần đây. Trước, chưa hề có. Tôi cũng không hiểu ai đã đặt ra từ ấy và nó có ý nghĩa gì. Vào Google, thấy có nhiều người bàn, nhưng không ai đưa ra được một lời giải đáp nào có sức thuyết phục cả. Về phương diện ngữ nghĩa, “khựa” chưa hề có lịch sử hay tiền sử trong tiếng Việt. Về phương diện ngữ âm, nó gần với hai từ: “khứa”, chỉ một gã nào đó với hàm ý khinh thị (khứa lão) và “bựa”, một tính từ chỉ sự nhếch nhác và thiếu tư cách. Từ “khựa”, bất kể xuất phát từ đâu, đều có âm vang xấu từ hai từ ấy. Hơn nữa, theo Nguyễn Tuân, phần lớn những từ có phụ âm “KH” đều “nhắc đến gọi đến những vật những việc những trạng thái không được vừa mắt, vừa mũi, vừa tai, không được vừa lòng; nó khiến người ta trông thấy nghe thấy, rờ phải ngửi phải nếm phải, đều phải thấy không đẹp lòng, phải thấy khó chịu, đều phải phản đối bằng… một số từ mở ra bởi phụ âm kép KH rất chi là chối cho những cặp tai sành thẩm âm. Có thể nói như thế này được không: những phụ âm kép KH đó báo cáo những cái không hay…” (Chuyện nghề, nxb Tác Phẩm Mới, Hà Nội, 1986, tr. 143-7).

Nguyễn Tuân nêu nhận xét trên trong một bài viết từ năm 1972. Lúc ấy, Nguyễn Tuân chưa hề biết đến chữ “khựa”. Bây giờ đọc lại những nhận xét của ông, chúng ta thấy tất cả đều đúng. Và đúng nhất khi ứng dụng vào chữ “khựa”: Chúng ta không biết nghĩa nó là gì, nhưng nghe cái âm vang nó gợi ra, chúng ta đều cảm thấy khó chịu, hơn nữa, kinh tởm. Nó gợi liên tưởng đến những khai, những khẳm, những khẳn, những khét, những khú, những khạc, những khò khè, khù khờ, khừ khừ, khùng khùng, khô khốc, khấp khểnh, khệnh khạng, những khèng khẹc, những khắt khe, những khốn khổ, những khủng khiếp…

Ngày xưa, trong văn hóa chính thống, hình như lúc nào người Việt cũng phục Tàu, xem Tàu như mẫu mực để học tập và mô phỏng. Cha ông chúng ta học chữ Tàu, học lịch sử, triết học và văn chương Tàu. Từ lễ nghi trong triều đình đến tập tục trong xã hội đều cố gắng làm cho giống Tàu. Lâu lâu, họa hoằn mới có những chủ trương “đánh để dài tóc”, “đánh để đen răng” như thời Quang Trung. Nhưng đánh thắng Tàu rồi thì đến trường, vào lớp, vẫn phải ngoác mồm ra ra rả đọc mấy câu mật ngữ “Tử viết” hết năm này đến năm khác.

Trong văn hóa dân gian, đặc biệt, trong ngôn ngữ thì khác, có vẻ như người Việt không tôn trọng Tàu mấy. Họ thờ Khổng Tử, Lão Tử cũng như các cao đồ của hai ông; nhưng với con cháu của hai ông, những người đương thời, thì họ vẫn gọi là “chú”: “Chú ba Tàu” hay “Chú Chệc”. “Chú” có thể là vai em của ba; nhưng “chú” cũng có thể là vai em của mình: “chú em”. Không biết người Việt dùng theo nghĩa nào, nhưng có điều chắc chắn, những cách gọi ấy, thân mật thì có thân mật, còn tôn trọng thì không. Năm 1945, lính Tưởng Giới Thạch, dưới quyền của Lư Hán, vào miền Bắc để giải giới quân Nhật, được/bị dân chúng gọi là “Tàu phù”. Phù tức là phù thũng, một chứng bệnh phổ biến của lính Tàu lúc ấy. Cách gọi như thế, đầy tính chất mỉa mai, thể hiện sự rẻ rúng của người Việt. Nhưng bây giờ, với chữ “Tàu khựa”, nó không còn là mỉa mai hay rẻ rúng nữa: Nó biến thành một sự ghê tởm và khinh bỉ.

Có thể nói, chưa bao giờ người Việt lại ghét Tàu và khinh Tàu đến như vậy.

Dĩ nhiên, cần lưu ý, khái niệm Tàu ở đây không đồng nghĩa với người Hoa. Có lẽ người Việt chưa đến mức kỳ thị người Hoa. Tàu khựa chỉ là bọn Tàu cầm quyền. Chứ không phải là người Tàu nói chung. Phương Uyên cũng như các bạn của em và phần lớn người Việt có lẽ không có ý định xua đuổi người Hoa ra khỏi Việt Nam như chính quyền Việt Nam đã từng xua đuổi Hoa kiều ra khỏi Việt Nam vào những năm 1978-79. Các em chỉ đòi bọn “Tàu khựa cút ra khỏi Biển Đông”. Vậy thôi.

Các công tố viên ở Long An buộc Phương Uyên tội nói những điều “không hay về Trung Quốc”. Cái gọi là “không hay” ấy nằm ở đâu trong câu biểu ngữ “Tàu khựa cút khỏi Biển Đông”? Có lẽ không phải ở nhóm động từ “cút khỏi Biển Đông”. Bởi đó chỉ là sự kiện. Cái “không hay” có lẽ nằm ở danh từ “Tàu khựa”: Nó thể hiện sự khinh bỉ.

Với chính quyền Việt Nam, chữ “khựa” là một chữ húy. Ngay cả chữ “Tàu” cũng là một chữ húy. Tàu Trung Quốc (hay tàu của Tàu, theo cách gọi dân gian) đánh chìm tàu đánh cá Việt Nam hay bắt bớ hoặc giết chết ngư dân Việt Nam thì được gọi là “tàu lạ”.

Với chữ “Tàu”, còn thế, huống gì là “Tàu khựa”.

Tuy nhiên, điều thú vị là khi vào Google, tìm chữ “khựa”, tôi mới phát hiện ra, một số cây bút Việt Nam thỉnh thoảng cũng chơi trò du kích, đánh lén Tàu khựa trên cả báo chí chính thống.

Tôi bắt gặp hai lần như thế. 

 Một lần, trong một chuyện có nhan đề “Sự lên gân của Khựa” đăng trên báo Pháp Luật ngày 1/6/2011. Chuyện kể: Khựa là hàng xóm của Hai Lúa. Khựa hay qua ao nhà Hai Lúa trộm cá. Lúc đầu, ăn trộm, sau, nó cấm cả nhà Hai Lúa bắt cá ở ao nhà của họ. Tức quá, Hai Lúa chửi um lên. Khựa có thấy nhục không? Không. Tác giả, Người Sành Điệu, viết: “Khựa đâu cần quan tâm mấy lời chửi đó. Tổ tông nhà Khựa bao đời nay vốn vậy nên máu mủ trong người Khựa cũng vậy. Nghe đâu Khựa còn tự đắc là mình ngày càng đa mưu túc trí.”

Một lần khác, trong bài “Ba Khựa và món giỗ cha” của Thái Sinh trên báo Nông Nghiệp Thứ Sáu 14/12/2012. Đó là một câu chuyện phiếm có hai nhân vật chính: Thảo Dân và Ba Khựa. Hai người là láng giềng của nhau. Ba Khựa, làm nghề đồ tể, chuyên câu trộm cá ở ao nhà Thảo Dân. Thảo Dân trách, nó cứ chối. Một hôm, Ba Khựa mời Thảo Dân sang nhà ăn giỗ. Trong đám đồ cúng trên bàn thờ có một cái lưỡi bò bên cạnh một con dao nhọn buộc chỉ đỏ. Ngày hôm sau, Ba Khựa phát hiện cái lưỡi bò bị mèo tha mất nên tức giận quát tháo om sòm. Kết thúc câu chuyện có ý nghĩa: Mèo, thật ra, là Mẽo. Và Mẽo là Mỹ. Ý của tác giả rất rõ: Chỉ có Mỹ mới cắt được con đường lưỡi bò!

Như vậy, đâu phải chỉ có Nguyễn Phương Uyên và các bạn của em đòi đuổi đám Tàu khựa ra khỏi Biển Đông?

Buộc tội cho em như thế là oan.

Hơn nữa, còn làm cho chữ “Tàu khựa” đi vào lịch sử.

Thứ Sáu, 31 tháng 5, 2013

Ca dao biểu tình chống cộng của dân ngu

 

           Dân ngu thì đã lâu rồi,
           Yếu thì chịu yếu cần chi tỏ bày.
           Sống thì sống xỉn say,
           Sợ là sợ có ngày tiêu vong.
           Còn đảng thì còn nhân dân;
           Còn nhà còn bạc còn mong của trời.
           Ai dâng Nước, ai gọi mời,
           Dựng xây chủ nghĩa bao đời đấu tranh.
           Đấu tranh dâng Nước cho nhanh,
           Cho người sáng suốt lưu manh ba tàu.
           Lũ ngu cứ mãi  làu nhàu,
           Ngàn năm chưa tỉnh đảng nào là của dân?
           Đảng chúng tôi là đảng có công,
           Dạy cho người Việt ngu đần gian tham,
           Quây đầu về với tàu man;
           Nước Việt ta bán khỏi làm có ăn.
           Nếu muốn lật lộng lăng nhăng,
           Đừng nên chửi bới làm càn ích chi,
           Có ngon cướp chính quyền đi;
           Mới mong đảng sợ,đảng quỳ sửa sai.


                                                  Nguyễn Lộc

Thứ Sáu, 24 tháng 5, 2013

Dáng thơ mùa hạ



       Âm thầm ẩn khuất giữa đồi hoang,
       Từng cánh hoa mơ đón gió ngàn.
       Chiều xuống em về đùa nắng ấm,
       Ngày lên tôi đến mộng bên nàng;
       Tung bay tà áo vờn theo gió,
       Buông thả làn tơ nghiêng dáng ngoan.
       Mắt lướt chân trời ru hạ thắm,
       Ngàn năm văng vẳng tiếng ve vang.

                                         Nguyễn Lộc

Đạo phật thời toàn trị



           Thà đừng giảng đạo mà tu chứng,
         Lý thuyết dài dòng lại rối tung.
         Từ ngữ dao to gây mất hướng,
         Người dân kém trí vững lòng tin.
         Đem tiền dâng lộc cho thầy cúng,
         Chứng giám ơn lành nhớ đảng hung.
         Dân tộc đạo tràng và chủ nghĩa
         Tiếp tay phá nước sớm tiêu vong.

                                             Nguyễn Lộc

Thứ Năm, 23 tháng 5, 2013

Cung đàn ngũ uẩn



          Ánh bình minh dậy muôn tia nắng,
        Rung cánh chim trời nhịp sống tươi.
        Những đoá hoa đời hương sắc thắm,
        Vạn lời ong bướm ý tinh khôi.
        Quyện hoà trời đất duyên tao ngộ,
        Xoay chuyển âm dương giấc mộng người.
        Thương ghét  đàn vang cung ngũ uẩn,
        Âm thanh sắc tướng tấu muôn nơi .
                                         
                                           Nguyễn Lộc