Thứ Hai, 20 tháng 5, 2013

Ca dao chống độc tài toàn trị



        Ai ơi hãy nhớ điều nầy,
      Nghe theo lời đảng tự gây khổ mình.
      Bây giờ đã lỡ điêu linh,
      Thì mau gắng sức giữ gìn non sông,
      Diệt loài tòan trị hại nhân,
      Hãy mau thức tỉnh người dân đang chờ.
      Độc tài không dễ thờ ơ,
      Dựa vào kẻ dại nhởn nhơ vui đùa,
      Mặc ai đói khát bơ vơ,
      Chuyện người, người biết, chẳng sờ vào ai ,
      Đến khi đảng hết tiền xài,
      Quơ quào của dại của khôn cho mình.
      Sống trong xã hội vô minh,
      Mạnh thì được cả "văn minh luật rừng".
      Học đòi theo thói vô luân,
      Chẳng cần đạo đức lòng nhân với người.
      Lòng tham đã thắng cuộc đời,
      Quân tàu dòm ngó chờ thời Việt vong.

                                                Nguyễn Lộc

Thứ Sáu, 17 tháng 5, 2013

Lời than của Mặt trận giải phóng miền nam xưa



       Dầu ai nói ngược nói xuôi,
      Lòng ta vẫn chịu là người mua vui.
      Dầu ai  có giữ nụ cười,
      Lòng ta vẫn chịu là người u mê.
      Dầu ai phỉ báng ê chề,
      Lòng ta vẫn chịu tái tê lầm đường.
      Dầu ai khanh tướng diễu dương,
      Lòng ta vẫn chịu là phường bội vong.
      Dầu ai nói chuyện đợi mong,
      Lòng ta hối hận Nước dâng cho Tàu.

                                            Nguyễn Lộc

Thứ Tư, 15 tháng 5, 2013

Tiếng chim gọi đàn

 

          Chim khẽ trên cành rưng tiếng khóc,
        Thì thầm nhớ tổ lúc xa nguồn.
        Lạc đàn lẽ bạn thân phiêu bạt,
        Nhớ nước sầu non lệ tủi buồn.
        Biết bao cuộc sống luôn trôi nổi,
        Vô số dân lành mãi oán vương.
        Cầu nguyện quan quyền thôi cướp bóc,
        Quay về chung sống trọn tình thương.

                                              Nguyễn Lộc

Sợ hãi và lòng tham



            Ta mắc lỗi lầm nên sợ hãi,
          Hận thù muốn tránh phải ra tay.
          Ý dò thăm hỏi trừ hậu hoạ,
          Tìm cách an thân giấc mộng dài.
           Ma quỷ đưa đường tâm bấn loạn,
           Con người dối gạt chuyện làm sai.
           Tưởng rằng lợi lạc do tu chứng,
           Chỉ một lòng tham ác nghiệp bày.

                                                Nguyễn Lộc

Thứ Ba, 14 tháng 5, 2013

Nguyễn Hưng Quốc - Từ chống Cộng đến chống toàn trị



Nguyễn Hưng Quốc

Trong lịch sử loài người, thời nào cũng có xung đột. Nhưng xung đột ở thế kỷ 20 và 21 khác các thế kỷ trước ở nhiều điểm.


Thứ nhất, chúng có tính chất toàn cầu. Trước đó, một số đế quốc mang quân đi chinh phạt nhiều quốc gia thuộc nhiều lục địa khác nhau, nhưng xung đột vẫn giới hạn giữa hai quốc gia chính: đế quốc và thuộc địa. Đã có một số liên minh được thành lập để chống lại một nước nào đó, nhưng tất cả các liên minh ấy đều tạm thời và cũng chỉ giới hạn trong một khu vực nhất định. Bắt đầu từ đầu thế kỷ 20, ngược lại, với hai cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai cũng như cuộc Chiến tranh lạnh kéo dài gần nửa thế kỷ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, quy mô của xung đột mới thực sự có tính toàn cầu: Không có nơi nào thoát khỏi ảnh hưởng của chúng.

Thứ hai, lần đầu tiên trong lịch sử, thông tin, và cùng với nó, tuyên truyền, trở thành một thứ vũ khí chủ đạo. Trong thông tin và tuyên truyền, có hai yếu tố đóng vai trò chủ yếu: hình ảnh và ngôn ngữ. Trong hai yếu tố ấy, hình ảnh là một yếu tố mới, gắn liền với các kỹ thuật truyền thông hiện đại, đặc biệt báo chí và truyền hình. Còn ngôn ngữ thì đã có từ lâu. Nó chỉ thay đổi ở mức độ và cách thức được sử dụng. Có thể nói chưa bao giờ ngôn ngữ bị chính trị hóa một cách sâu sắc đến như vậy.

Thứ ba, như là hệ quả của điểm trên, chỉ từ thế kỷ 20 trở đi, các cuộc xung đột mới mang màu sắc văn hóa rõ nét. Hậu quả là, bên cạnh mặt trận quân sự và chính trị vốn hiện hữu từ lâu, người ta có thêm một thứ mặt trận mới: mặt trận văn hóa. Mục tiêu chính của mặt trận văn hóa là chinh phục tình cảm và tư tưởng của con người. Có khi chính mặt trận văn hóa này quyết định cục diện của cuộc chiến đấu, phân định kẻ thắng và người thua, một cách tạm thời cũng như trong dài hạn. Theo Samuel P. Huntington, trong cuốn The Clash of Civilizations and the Remaking of World Order (1996), xung đột chính trên phạm vi toàn thế giới sau thời kỳ chiến tranh lạnh không còn xuất phát từ ý thức hệ như trước mà chủ yếu xuất phát từ văn hóa, trong đó yếu tố quan trọng nhất là tôn giáo. Tình hình chính trị thế giới sau biến cố 11/9/2001, châu tuần chung quanh cuộc chiến chống khủng bố vốn gắn liền với các phần tử Hồi giáo cực đoan, dường như củng cố một phần các luận điểm của Huntington.

Trong mặt trận văn hóa và với vai trò của thông tin cũng như tuyên truyền, việc định danh (hay gọi tên) là một trọng tâm trong chính sách của mọi phía.

Trên nguyên tắc, sự khác biệt căn bản giữa các nước Cộng sản (từ 1917 đến 1991) và các quốc gia Tây phương là ở bình diện kinh tế, hoặc nói theo thuật ngữ của các nhà Mác-xít, ở phương thức sản xuất: Đó là sự khác biệt giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, để ý mà xem, trên hầu hết các khẩu hiệu được sử dụng ở các nước Cộng sản ấy, từ Liên Xô đến Trung Quốc và cả Việt Nam nữa, khẩu hiệu trung tâm và phổ biến nhất, là chống chủ nghĩa đế quốc (hoặc gọn hơn, như ở Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp, “phản đế”, anti-imperialism) chứ không phải là chống chủ nghĩa tư bản (anti-capitalism).

Khi đưa việc chống chủ nghĩa đế quốc thành nội dung chính trong chính sách tuyên truyền, Lenin đã thay đổi một luận điểm căn bản của Karl Marx: Với Marx, được trình bày trong cuốn Tư bản luận, chủ nghĩa đế quốc là thời tiền sử - hoặc sơ kỳ - của chủ nghĩa tư bản; với Lenin, nó là giai đoạn phát triển cao nhất của chủ nghĩa tư bản; http://www.marx2mao.com/Lenin/IMP16.html với Marx, nó đã hoặc sắp thuộc về quá khứ, với Lenin, nó đang ở thì hiện tại và có thể, trong tương lai. Biểu hiện rõ nhất của chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa thực dân (colonialism).

Có điều, sau thập niên 1950, chủ nghĩa thực dân hầu như tan rã khắp nơi: Hầu hết các nước thuộc địa, bằng chiến tranh hoặc bằng biện pháp hòa bình, lần lượt giành được độc lập. Các nhà tuyên truyền Cộng sản phải tạo nên một khái niệm mới: chủ nghĩa thực dân mới (neo-colonialism). Nếu, nói như Lenin, chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn phát triển cao nhất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân mới được xem là giai đoạn phát triển cao nhất, thậm chí, là giai đoạn cuối cùng, của chủ nghĩa đế quốc.

Cả chủ nghĩa thực dân cũ lẫn chủ nghĩa thực dân mới đều nhắm đến một mục tiêu giống nhau: kiểm soát các thuộc địa. Chỉ khác ở cách thức và phương tiện: Với chủ nghĩa thực dân cũ, đó là quân sự và việc xâm chiếm lãnh thổ; với chủ nghĩa thực dân mới, đó là kinh tế và âm mưu thực dân hóa tâm hồn con người bằng một thứ “văn hóa đồi trụy”; với chủ nghĩa thực dân cũ, cái lợi chủ yếu nằm ở tài nguyên và sức lao động, với chủ nghĩa thực dân mới, cái lợi chủ yếu nằm ở thị trường và các ảnh hưởng chính trị trên bàn cờ quốc tế.

Có thể nói một cách tóm tắt, sự phát triển của phong trào Cộng sản thế giới từ cuối thế kỷ 19 cho đến lúc sụp đổ vào cuối thế kỷ 20 đã trải qua ba giai đoạn với ba khẩu hiệu chính: Thoạt đầu, với Marx và Engels, đó là chống chủ nghĩa tư bản; với Lenin và Stalin, là chống chủ nghĩa đế quốc; với các nhà lãnh đạo sau Stalin, là chống chủ nghĩa thực dân mới. Về phương diện tuyên truyền, hai giai đoạn sau tinh tế hơn: Nó chuyển mục tiêu từ kinh tế sang chính trị; và ở chính trị, biến một ý thức hệ trừu tượng và mơ hồ thành một ác quỷ mang mặt người với súng đạn và tiền bạc, với những bàn tay đầy máu me. Tất cả đều được sử dụng như những con ngoáo ộp để dọa dẫm người khác. Bên cạnh những con ngoáo ộp ấy, mọi quốc gia thân thiện với Mỹ đều bị gắn nhãn là tay sai hoặc là bù nhìn. Chưa hết, vì cả hai đều là những giai đoạn “phát triển cuối cùng” nên sau đó chỉ là “vực thẳm”! Hình ảnh để quốc đứng trên bờ vực thẳm là một sáo ngữ được lặp đi lặp lại khắp nơi.

Về phía Tây phương, để chống lại sự phát triển và những đe dọa từ chủ nghĩa Cộng sản, kể từ sau năm 1917, người ta đã tung ra những chiến dịch chống Cộng rầm rộ dưới nhiều hình thức và bằng nhiều phương tiện khác nhau, từ quân sự đến chính trị và văn hóa. Trong lãnh vực văn hóa, người ta nhắm đến việc chứng minh lý thuyết của Marx và Lenin, đặc biệt chủ nghĩa duy vật lịch sử, là sai: Với Marx, lịch sử phát triển theo con đường tuyến tính, sau chủ nghĩa phong kiến là chủ nghĩa tư bản và sau chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Cộng sản; với những người chống Cộng, diễn trình ấy chỉ là một ngộ nhận và cái gọi là chủ nghĩa Cộng sản như một thứ thiên đường hạ giới chỉ là một không tưởng.

Tuy nhiên, khi biến việc chống Cộng thành một khẩu hiệu chính như vậy, người ta lại vấp phải khá nhiều sai lầm trong việc thu hút sự chú ý và sự đồng tình của quần chúng, đặc biệt của giới trí thức.

Thứ nhất, nó biến một xung đột chính trị, thậm chí, xung đột vũ trang thành một thứ xung đột về phương diện lý thuyết. Thay vì chống lại những đội quân hùng hậu đang cầm súng bắn vào họ hoặc bắn vào nhân dân của nước họ, người ta lại tập trung vào việc chống lại ông Marx và ông Engels cũng như các tác phẩm triết học và kinh tế học dày cộm của hai ông ấy – những tác phẩm mà, oái oăm thay, ngay chính các lãnh tụ cao cấp nhất của các đảng Cộng sản cũng chưa chắc đã đọc!

Thứ hai, chống lại chủ nghĩa Cộng sản không khác gì chống lại một tôn giáo. Cả chủ nghĩa Cộng sản lẫn tôn giáo, bất cứ tôn giáo nào, đều giống nhau ở chỗ: cả hai đều nhắm đến những lý tưởng cao đẹp và cao cả, nhằm giải phóng và cứu rỗi con người. Người ta không thể chống lại những lý tưởng như thế. Hơn nữa, ngay cả khi người ta có thể chứng minh những lý tưởng ấy chỉ là những sự không tưởng, người ta cũng rất khó thuyết phục được người khác. Có hai lý do chính. Một, với lý tưởng, người ta sử dụng niềm tin hơn lý trí. Mà niềm tin lại có thể bất chấp lý trí. Hai, nhân danh những lý tưởng ấy, người ta có thể biện hộ cho các sai lầm trong hiện thực: lý tưởng đúng, chỉ có chính sách là sai. Mà chính sách thì có thể thay đổi được. Nếu không thay đổi được thì cũng có thể… thông cảm được.

Lý do thứ hai kể trên là thái độ chung của rất nhiều trí thức Tây phương trong suốt thế kỷ 20. Không phải người ta không biết Cộng sản độc tài và tàn bạo; không phải người ta không biết Stalin và Mao Trạch Đông đã giết chết cả hàng chục triệu người. Nhưng người ta vẫn cho đó chỉ là những giải pháp tình thế trong giai đoạn chuyển tiếp của cách mạng. Với họ, đó là những cái giá phải trả và cần trả cho một tương lai tốt đẹp hơn của nhân loại.

Đó là chưa kể việc nhân danh chiêu bài chống Cộng, một số chính trị gia đã trở thành những kẻ hung hãn, khắc nghiệt, thậm chí độc tài đến độ bóp nghẹt cả tự do và dân chủ, biến thành những cơn ác mộng hãi hùng trong xã hội. Tiêu biểu nhất là trường hợp Thượng nghị sĩ Joseph MacCarthy (1908-1957) ở Mỹ. Chống Cộng một cách cuồng nhiệt, McCarthy liên tục chụp mũ hết người này đến người khác là Cộng sản hoặc là gián điệp của Cộng sản và yêu cầu Quốc hội phải điều tra để làm sáng tỏ “tội phạm” của họ. Ông nhắm mũi dùi tấn công vào cả văn phòng Tổng thống Harry Truman (có khi ngay chính bản thân Tổng thống Truman!), Quân đội Mỹ và đặc biệt, đài Tiếng nói Hoa kỳ (VOA). Do yêu cầu của ông, từ năm 1949 đến 1954, Quốc hội Mỹ đã mở trên 100 cuộc điều tra lớn. Nhiều công chức cao cấp, kể cả nhân viên đài VOA bị mang ra Quốc hội trả lời các cuộc điều tra của ông (có người không chịu nổi sức ép và sự nhục nhã đã tự tử ngay trong quá trình điều tra để chứng minh mình vô tội!) Chưa hết. Ông còn lùng sục vào các thư viện, tố cáo hết cuốn này là của Cộng sản đến cuốn khác là thân Cộng và yêu cầu phải dẹp bỏ; cuối cùng, có đến 30.000 cuốn sách bị loại ra khỏi các kệ sách trong thư viện. Nhiều trí thức và văn nghệ sĩ nổi tiếng, như Richard Wright, James Baldwin, Lester Cole… không chịu nổi cảnh ấy, đã bỏ sang Âu châu sinh sống.

McCarthy và chủ nghĩa McCarthy (McCarthyism) đã gây kinh hoàng cho đa số dân chúng Mỹ và trở thành một hình ảnh xấu trong chính trường Mỹ. Nhiều nhà bình luận chính trị cho chủ nghĩa McCarthy là một món quà quý báu nhất mà người Mỹ đã tặng cho Stalin. Nói cách khác, không ai có “công” đối với Cộng sản cho bằng chủ nghĩa McCarthy. Một mặt, nó làm việc “chống Cộng” trở thành đồng nghĩa với một cái gì cực đoan và thô bạo. Nó gợi lên những ấn tượng thật xấu, một “bad name”, thậm chí, một “từ bẩn thỉu” (“dirty word”). Mặt khác, nó làm nản lòng những người chống Cộng thực sự. Trước, những người chống Cộng nhất là những người có tinh thần tự do; sau, là những người bảo thủ, lại là thứ bảo thủ hẹp hòi. Những người có tinh thần tự do, ngược lại, một mặt, không thích Cộng sản, mặt khác, lại dị ứng với việc chống Cộng.

Hai sự kiện trên dẫn đến hai hiện tượng đáng tiếc.

Thứ nhất, nó làm nảy nở phong trào chống-chống Cộng (anti-anti-communist) ở Tây phương, ngay tại Mỹ, trong suốt thập niên 1960 và 1970. Chính trong khí quyển tinh thần như thế, Jean-Paul Sartre đã nói một câu đầy tai tiếng: “Các tên chống Cộng đều là chó.”

Thứ hai, nó khiến người ta quên bẵng đi chủ nghĩa phát xít hoặc xem những người chống Cộng như là đồng minh của chủ nghĩa phát xít, trong khi, trên thực tế, ai cũng biết, như Susan Sontag tuyên bố trong một bài diễn văn tại New York năm 1982: “Chủ nghĩa Cộng sản là chủ nghĩa phát xít, một thứ chủ nghĩa phát xít thành công.” (Communism is Fascism - successful Fascism)

Xin lưu ý là: Mặc dù xem chủ nghĩa Cộng sản là một thứ chủ nghĩa phát xít, Susan Sontag cũng không thích những người chống Cộng dù bà không hề phản đối những người chống lại chủ nghĩa phát xít. Trong chiến tranh Việt Nam, bà từng ủng hộ Hà Nội và từng đi Hà Nội, sau đó, viết nguyên cả cuốn sách về chuyến đi ấy dưới nhan đề Trip to Hanoi (1969).

Ở đây, chúng ta thấy một nghịch lý của rất nhiều trí thức Tây phương: Người ta vừa không thích chủ nghĩa Cộng sản vừa không thích những người chống lại Cộng sản. Có điều, những người Cộng sản thì ở xa, trong khi đó, những người chống Cộng lại ở gần, rất gần. Cộng sản tồn tại như một ý niệm trừu tượng, thuộc một thế giới khác, trong khi những người chống Cộng lại cụ thể, hiện diện ngay trước mắt, và không ngừng quấy nhiễu họ. Chính vì vậy, có lúc phong trào chống-Chống cộng mạnh hơn cả các phong trào chống Cộng. Hơn nữa, cũng cần lưu ý, những trí thức khuynh tả mang tinh thần chống-chống Cộng như vậy, một thời gian dài, có rất nhiều ảnh hưởng trong hệ thống giáo dục ở Tây phương. Do đó, ấn tượng xấu về các phong trào chống Cộng càng lúc càng lan rộng và còn lại lâu dài. Không chừng đến tận bây giờ. (Những ai có điều kiện tiếp xúc nhiều với giới trí thức Tây phương có thể thấy rõ điều này.)

Nhận ra được điều đó, ngay từ thập niên 1960, một số nhà chiến lược và trí thức đề nghị chuyển đổi mục tiêu và tiêu ngữ: thay vì giương cao ngọn cờ chống Cộng (anti-communism), người ta lại hô hào chống toàn trị (anti-totalitarianism).

Có bốn nguyên nhân chính của việc chuyển đổi từ chống Cộng đến chống toàn trị:

Thứ nhất, nhờ các công trình nghiên cứu của Hannah Arendt, đặc biệt cuốn The Origins of Totalitarianism, được xuất bản lần đầu năm 1950, nghĩa là trước bài phát biểu nhắc ở trên của Susan Sontag trên 30 năm, người ta nhận thấy chủ nghĩa Cộng sản rất gần chủ nghĩa phát xít: cả hai đều độc tài và toàn trị; cả hai đều là những tội ác khủng khiếp. Nếu người ta chống lại chủ nghĩa phát xít thì người ta cũng cần chống lại chủ nghĩa Cộng sản. Vì cả hai là một. Bằng cách đó, công cuộc chống Cộng huy động được một lực lượng cực kỳ đông đảo ở Tây phương: những người chống lại chủ nghĩa phát xít, trong đó, có cả hàng chục triệu người vốn là nạn nhân hoặc là thân nhân của các nạn nhân của chủ nghĩa phát xít.

Thứ hai, tập trung vào khía cạnh độc tài và toàn trị, một mặt, người ta né tránh được khía cạnh lý thuyết và chỉ nhắm vào khía cạnh thực tiễn; mặt khác, người ta cũng tránh được những ấn tượng xấu do chủ nghĩa McCarthy để lại trong dư luận quần chúng. Bằng cách đó, người ta vừa hạn chế được mặt yếu của mình (sự hoành hành của phong trào chống Cộng cực đoan) vừa khai thác được mặt yếu của đối phương (thực tế độc tài và nghèo đói, sự hiện diện của các trại tù và trại tập trung cải tạo từng giết chết cả hàng triệu người).

Thứ ba, với chiêu bài chống toàn trị, người ta sử dụng một bảng giá trị và những lý tưởng khác ngoài chủ nghĩa tư bản: Người ta chống lại toàn trị không phải để bảo vệ chủ nghĩa tư bản, vốn dù cố gắng đến mấy, vẫn còn đầy những bất toàn, mà là để bảo vệ những lý tưởng cao cả nhất của nhân loại: tự do, bình đẳng và nhân quyền. Bằng cách đó, nó huy động được sự ủng hộ của nhiều người hơn, đặc biệt các trí thức khuynh tả, những người vốn cấp tiến và yêu chuộng tự do.

Thứ tư, như là hệ quả của ba điểm trên, với nội dung chống toàn trị, cuộc đấu tranh chống lại Cộng sản có một nội dung cụ thể. Nói chung, bất cứ một phong trào nào bắt đầu bằng chữ “chống” cũng đều có một nội dung tiêu cực: Nó nhằm phủ nhận. Nó không hứa hẹn một sự thay thế nào cả. Nhưng khi xem việc phủ nhận là mục tiêu chính của việc tranh đấu, người ta cũng lại tự tạo thành những khoảng trống ngay dưới chân mình. Hậu quả là người ta chỉ chiến đấu một cách chơi vơi, từ đó, không có sức mạnh gì đáng kể. “Chống toàn trị”, ngược lại, hầu như là một ngoại lệ. Nó không đơn thuần là một sự phủ định. Mà còn là một sự xây dựng. Lý do chính là “toàn trị” chỉ có một mặt đối lập: Dân chủ. Chống toàn trị bao hàm ý nghĩa là bênh vực và xây dựng dân chủ. Không thể có cách hiểu nào khác.

Với bốn lý do nêu trên, từ nửa sau thập niên 1970, việc chống chủ nghĩa toàn trị đã trở thành tâm điểm trong ý thức hệ chống Cộng thời Chiến tranh lạnh. Việc chọn lựa tâm điểm này làm cho cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa cộng sản trở thành cụ thể và có sức thuyết phục hơn: Người ta chống lại Cộng sản không phải vì nó là Cộng sản mà vì nó độc tài. Sự độc tài chỉ có thể có hiệu lực khi Cộng sản nắm chính quyền một cách độc tôn. Nếu đảng Cộng sản chỉ tồn tại như bao nhiêu đảng phái chính trị khác, nó hoàn toàn vô hại. Hơn nữa, sự có mặt của nó còn chứng minh tính chất tự do của một chế độ dân chủ. Nhớ đến điều này chúng ta hiểu tại sao trong thời chiến tranh lạnh, ở phần lớn các quốc gia Tây phương, một mặt người ta chủ trương chống Cộng, mặt khác, người ta vẫn cho phép các đảng Cộng sản được hoạt động một cách công khai (thật ra, một số quốc gia, trong đó có Úc, từng có kế hoạch loại đảng Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, nhưng nghị quyết của đảng cầm quyền bị Tòa án Tối cao bác bỏ với lý do nó vi phạm nguyên tắc về tự do tư tưởng và chính trị đã được ghi trong Hiến pháp).

Có thể nói, chiến thắng của Tây phương trong cuộc Chiến tranh lạnh vào cuối thế kỷ 20 thực chất là chiến thắng của cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa toàn trị.

Chiến thắng ấy bắt đầu từ một thay đổi mang tính chiến lược: Từ chống Cộng sản đến chống toàn trị.

Xin lưu ý chữ “tính chiến lược” ở trên.

Giấc mộng tồi



           Hãy chạy nữa đi hỡi dục ôi !
         Bao nhiêu sức đổ ở trên đồi.
         Tiền tài danh vọng thân mòn mỏi,
         Con cháu gia đình tiếng đãi bôi.
         Sáng khởi tối tàn dăm bạc hưởng,
         Ngày lo đêm nghĩ dạ đầy vơi.
         Trăm năm chỉ bấy nhiêu dòng sống,
         Chảy mãi khổ vui giấc mộng tồi.

                                            Nguyễn Lộc

Thứ Hai, 13 tháng 5, 2013

Huyền thoại anh hùng Cộng sản sụp đổ



      Huyền thoại khi xưa đã lộ ra,
    Anh hùng thời vận hoá gian tà.
    Tham tiền cướp của lên rừng núi,
    Cầm súng biểu dương cứu nước nhà.
    Đâu phải yêu thương choTổ Quốc,
    Chỉ vì đố kỵ lấy danh xa.
    Rước Tàu chống Mỹ mua quyền quí,
    Vô dụng bất tài một lũ ma
                                         Nguyễn Lộc

Thứ Bảy, 11 tháng 5, 2013

Hận đời lưu lạc



            Mùa hạ mưa buồn lên khoé mắt,
          Gót chân lưu lạc giữa ngàn khơi.
          Thời gian hờ hững trôi xuôi mãi,
          Non nước âu sầu khóc tả tơi.
          Cứ ngỡ tháng tư thôi chuốt oán,
          Nào ngờ thuở ấy hận không nguôi.
          Hoà bình chỉ có yên bom đạn,
          Biết đến bao giờ hết lệ rơi.

                                           Nguyễn Lộc
          
  

Thứ Năm, 9 tháng 5, 2013

kông kông - Như thế nào là chống cộng quá khích


kông kông

Trong “Thư tâm tình gửi các bạn chống cộng quá khích” của Nguyễn Thành Công – DL [1] phần mào đầu bài viết, câu cuối, như ri: “.. nếu bạn không phải là những người chống cộng quá khích thì không nên đọc.”  Vậy, bất cứ ai lỡ đọc thì chớ lên tiếng, vì lên tiếng, dù khen/chê, đều tự tố cáo mình cùng giuộc với “chống cộng quá khích”!  Hãy để một mình tác giả giảng về nó thôi!


Trong bóng đá, môn thể thao người VN ưa thích, nếu đã để thua trước 0-1 thì chỉ còn con đường ráng gỡ hòa chứ nói thắng thì hơi bị mệt!  Cho nên ngồi gõ những dòng nầy (theo như mào đầu của tác giả) thì chắc tôi đang tự xác nhận mình thuộc giuộc “chống cộng quá khích”.  Và, như thế là đã bị thua 0-1, bây giờ chỉ còn nước ráng gỡ huề là may  huhuhu..!

Đặt bạn đọc ngay trong giây phút đầu tiên của “trận đấu” đã ở vào thế “bị thua” thì thử hỏi tác giả có phải là người quá khích hay cực đoan không?  Mà quá khích, hay cực đoan, thì làm sao lý để người khác nghe theo? 

Một tuần nay chưa thấy ai mắc bẫy “chống cộng quá khích” tác giả giăng ra, nên tôi đành tự sụp bẫy bằng bài trao đổi nầy!   

Nội hàm bài viết không có gì lạ.  Đại khái:  Chính phủ/chế độ như con thuyền.  Dân như nước.  Chế độ lo cho dân thì nước làm nổi thuyền.  Nhưng bỏ dân thì sóng sẽ nhận chìm thuyền!  Đứng trước nạn phe phái, nhóm đặc lợi đặc quyền bỏ dân nên nhà cầm quyền CSVN đang bị phản đối.  Tác giả nằm trong số nầy “vì là nạn nhân của bất công”!  

Chống thì chống nhưng, theo tác giả, chống mà không rơi vào “chống cộng quá khích”!  Vì “chống cộng quá khích” vô hình trung làm hại nhiều người tích cực đang đứng trong mũi nhọn của cuộc đấu tranh”!   

“Tôi nghĩ tâm nguyện của các bạn chống cộng quá khích chỉ muốn mang lại những điều tốt đẹp cho đất nước chứ không hề định cản trở cuộc đấu tranh của nhân dân. Nhưng các bạn nóng lòng sốt ruột, đặt ra những yêu cầu “quá khích”, nếu ai không đồng ý thì các bạn tập trung “ném đá” dữ dội, vô hình trung làm hại nhiều người tích cực đang đứng trong mũi nhọn của cuộc đấu tranh.” (Trích)

Như vậy chống cộng như thế nào để không bị chê là quá khích?  

Thử nêu một số trường hợp.  

Chuyện cũ, nên bỏ qua như:

Từ sau ngày 30/4/1975, Đảng và nhà nước CHXHCNVN ra rả gọi chế độ VNCH là “bọn Mỹ-Ngụy ác ôn”, “bọn tay sai bán nước”, những người bỏ chạy ra nước ngoài là “bọn ôm chân đế quốc”, “bọn ăn bơ thừa sữa cặn”, nghĩa trang Quân Quân Đội Biên Hòa của binh sĩ miền Nam bị hoang phế, cấm ngặt người vãng lai hương khói (đến người chết cũng không tha!) mãi cho đến mới đây…!   

Chuyện bây giờ, cũng chỉ đại khái như: 

Đất đai, mồ mả tổ tiên của nông dân Văn Giang bỗng biến thành đất của nhóm lợi ích.  Công an + xã hội đen + dân phòng thẳng tay đàn áp cưỡng chế, bất chấp dư luận thế giới, lại vô tình đánh phù mặt 2 phóng viên báo “phe ta” rồi “xử lý nội bộ”, ếm nhẹm êm thấm!

Anh em gia đình ông Đoàn Văn Vươn, ra công quai đê lấn biển mười mấy năm, tiền vay ngân hàng để đầu tư còn sờ sờ ra đó thế mà khi đầm Cống Rộc đã tạm ổn định, có lợi tức tốt thì phe cánh nhà nước Tp Hải Phòng ra tay cưỡng chế và được ông Đại tá Giám đốc công an thành phố Đỗ Hữu Ca ca ngợi “cuộc phối hợp binh chủng giữa công an + bộ đội + dân phòng hay đến nổi có thể viết thành sách”!

Giáo dân Cồn Dầu ở Đà Nẵng, đã có lịch sử hơn cả trăm năm lập nghiệp, bỗng chốc cả làng bị cướp đuổi đi mà không biết kêu cứu với ai!

Những người dân bình thường, chẳng có bệnh tật bẩm sinh gì, lại đang khỏe mạnh, không nhức đầu sổ mũi nhưng khi bị công an bắt về đồn bỗng dưng ngã lăn ra “chết bệnh” hay “ân hận nên tự tử” (!)  Có trường hợp trước khi tự tử còn viết thư khen công an đối xử tử tế (trường hợp anh Nguyễn Công Nhựt ở Bình Dương)…  

Câu hỏi: 

Nếu tác giả là thân nhân của những nạn nhân nêu trên, tác giả sẽ có thái độ như thế nào?  Sẽ dùng loại ngôn ngữ nào với Đảng và chế độ CSVN, một chế độ công-an-trị (!)  không thèm đếm xỉa đến luật lệ do chính họ đặt ra, không thèm đếm xỉa đến tiếng kêu của dân oan, không thèm đếm xỉa đến quyền sống của một con người!  (Pano “Công an chỉ biết còn Đảng còn mình” nói lên tất cả!)

Rất mong tác giả Lá thư cho ý kiến chuẩn mực về những vấn đề trên để người đọc biết ứng xử mà khỏi mang tiếng “quá khích” hay “cực đoan”! 


Chuyện vừa nêu trên chỉ nhỏ thôi!  Còn chuyện bên dưới thì quan trọng hơn nhiều.  

Đó là:  Làm sao xác minh được sự chửi rủa thô tục, sắt máu, gây thù hận, gây chia rẽ tình tự dân tộc trên các diễn đàn đều là của người Việt chống cộng?  Loại “Chống cộng quá khích”, “hùa nhau ném đá” nầy là ai?

Trước thực trạng thối nát, tha hóa về mọi mặt của chế độ CSVN, đã có không ít những đảng viên kỳ cựu thuộc hàng cao cấp lên tiếng phản đối từ mười mấy năm trước, thời Tướng Trần Độ, Nguyễn Hộ, Nguyễn Văn Trấn…hay hiện tại như Nguyễn Trọng Vĩnh.  Vì thế, nội bộ đang cầm quyền của đảng CSVN càng ngày càng chia rẽ, công khai đấu đá tranh giành quyền lực, lợi lộc bất kể sự tồn vong của tổ quốc!  

Con đường sinh tử hiện tại của họ là phải cố gắng kéo dài sự thống trị.  Và muốn kéo dài thì không gì khác hơn là phải gây ra sự sợ hãi tột cùng cho người dân, cho đảng viên có ý chống đảng!  “Là suy thoái thiếu lập trường chớ gì nữa” như lời TBT Nguyễn Phú Trọng cảnh báo.  Sự sợ hãi đó là, nếu họ không trung thành thì không chết về tay Đảng cũng sẽ chết vì sự căm thù của dân chúng!  Đảng viên đàng nào cũng phải đối mặt với cái chết!  Vì thế cách tốt nhất là lo bảo vệ Đảng, để ngày nào Đảng còn thì gia đình và bản thân còn hưởng đặc quyền đặc lợi!  

Đảng còn, còn tất cả.  Đảng mất, mất tất cả!

Muốn cho đảng viên sợ hãi và trung thành thì cách tốt nhất là cho hàng ngàn “dư luận viên” đội lốt chống cộng cực đoan, chửi rủa, gây căm thù giữa người nầy với người khác, giữa dân với cán bộ đảng viên, giữa nhóm nầy với nhóm khác, giữa quốc nội với hải ngoại!  Đọc loại ngôn ngữ côn đồ, sắt máu đó thì người bình thường cũng phải nhăn mặt, ngán ngẫm, sợ hãi, nói chi đến ủng hộ!  Vì thế hình ảnh của những người chống chế độ CSVN ôn hòa, thật sự dấn thân cho tự do dân chủ đất nước bỗng trở thành xấu xa, hạ cấp!  Ủng hộ họ là cùng một giuộc với bọn mất dạy!  

Một công hai ba chuyện như thế đều nhắm vào mục đích bảo vệ Đảng, tại sao đảng CSVN không làm?

Đọc truyện Tam Quốc, một lần Khổng Minh cho đóng quân ở mé sông, trái ngược với binh pháp, là không có đường tẩu thoát, vì Khổng Minh biết quân mình đang yếu thế,  đàng nào cũng chết nên Khổng Minh mới đưa quân sĩ vào thế phải tử chiến.  Chỉ có thắng trận mới bảo vệ được mạng sống.  CSVN với đảng viên bây giờ cũng như thế!  

Cứ tạo ấn tượng là người VN đang căm thù họ và cả gia tộc.  Tất cả sẽ bị sát hại hay đọa đày nếu để chế độ CSVN sụp đổ!  Vì thế chỉ còn con đường duy nhất là phải “trung với Đảng”!

Đây là cách mà đảng CSVN đang trang bị tinh thần quyết tử cho đảng viên và gia đình dòng họ trước chính nghĩa đòi dân chủ tự do!  Vì thế trong bản Dự thảo sửa đổi HP 1992,  đảng CSVN quyết đặt 3 chữ Quân đội “trung với Đảng” thay vì “trung với nước” như tất cả các nước dân chủ trên thế giới!  

Như vậy thì ai mới thật sự là kẻ “chống cộng quá khích” hay “chống cộng cực đoan” và tại sao cụm từ nầy thường được nhắc đến!

Dù giai đoạn hiện tại không phải là giai đoạn hài tội để gây chia rẽ dân tộc!  Không phải là giai đoạn khích bác nhau “chống cộng quá khích” hay “chống cộng cực đoan”!  Trái lại, là giai đoạn mà người VN phải ngồi lại với nhau, xóa bỏ hận cốt nhục tương tàn đã qua, để tìm ra phương hướng giải cứu đất nước!  

Chủ nghĩa cộng sản và đảng CSVN là nguyên nhân chính đưa dân tộc đến thảm họa hiện tại, nhưng đó là vấn đề của lịch sử.  Và đã là lịch sử thì hãy để lịch sử phán xét!  

Hiện tại, sự đoàn kết của người VN yêu nước phải là mục tiêu tối thượng!  Vì đất nước và dân tộc!  Cũng vì tương lai của đất nước và dân tộc nên không thể viện dẫn bất cứ lý do gì để không đoàn kết với những anh em đã từ bỏ con đường cộng sản!  

Đấy là điều đảng CSVN đang lo sợ nhất!

Cho nên, thiển nghĩ, những chữ “chống cộng quá khích” hay “chống cộng cực đoan” chỉ nên dành riêng cho nhà nước CSVN!  Để khi họ dùng đến nó chúng ta biết họ là ai và tại sao họ dùng nó.  

Hễ ai dùng nó chúng ta nhận diện được đó là người đang chia rẽ dân tộc!

Trở lại với nội dung của tác giả về “Thư tâm tình gửi các bạn chống cộng quá khích”. 

Loại ngôn ngữ thô lỗ từ Thủ đô Hà Nội như “cháo chửi”, “phở chửi”, “đ..m..” tràn lan.  Xã hội ngày một hung dữ.  Tội phạm hình sự kinh khiếp, ngày một nhiều.  Tất cả những sự kiện đó đến từ đâu?  Gốc rễ từ loại văn hóa nào?  Không lẽ đã 38 năm trôi qua mà vẫn còn do hậu quả chiến tranh, do văn hóa “Mỹ-Ngụy” để lại?  Vậy ngôn ngữ “chống cộng quá khích” tự nó có thể cho biết điểm xuất phát! 

Nếu vợ con tác giả bị công an bắt đem về đồn lột trần truồng và quay phim, nói là để “kiểm soát” (trường hợp của cô Nguyễn Hoàng Vi xảy ra hôm tòa xử vụ án Điếu Cày)  Hay như đang xảy ra, ngày “Dã ngoại thảo luận quyền con người” mà cả gia đình cô đang phải hứng chịu!  Bị đánh đập tàn nhẫn, máu me, răng gãy, trán bị gí thuốc điếu đang cháy..  Nếu là tác giả thì sẽ phản ứng ra sao?  

Những sự thật như thế nên dùng loại ngôn ngữ nào để khỏi bị rơi vào giuộc “chống cộng quá khích”?  

Phải chăng nội hàm chính của “Thư tâm tình” là tất cả mọi người hãy giữ bình tỉnh, đừng gây xúc động mạnh đến xã hội vì như thế rất dễ sinh ra biến động.  Hãy để nhà nước “ta” từ từ sửa sai, vì phải lo ưu tiên về “giữ vững ổn an ninh để phát triển kinh tế”?  Chống cộng nhưng “không cực đoan”, “không quá khích” để khỏi làm ảnh hưởng đến “nhiều người tích cực đang đứng trong mũi nhọn của cuộc đấu tranh” như tác giả?

Sự thật là phải nói trung thực sự kiện.  Thí dụ như bản mặt của chế độ CSVN đã phơi bày rõ ràng qua hành động công an giết người ngay tại đồn, công an lột trần truồng cô Nguyễn Hoàng Vi để quay phim “kiểm soát”!  

Nói như thế có phải là “chống cộng quá khích” không?

(May 7th, 2013)