Thứ Ba, 20 tháng 12, 2016

CUỐI NĂM - NL

Tiễn đưa năm cũ
Co ro trong vùng tuyết trắng
Bước chân lặng lẽ
Nước non dâng đắng cuộc đời
Ra đi từng nổi sầu rơi
Người xưa năm ấy qua rồi nào hay

Bóng nắng quê hương
Chiều về nhuộm khắp phố phường
Giáo đường im bóng
Hồi chuông vang khúc vô thường mênh mông

Nhìn  về dĩ vãng
Hình hài giọng nói xa xôi
Hoà trong hơi ấm
Gọi hồn năm cũ một thời yêu đương

Dec 20,2016


Thứ Bảy, 3 tháng 12, 2016

Nhiệm mầu trong cõi vô thường
Trăm năm lặng ngắm đoá hường đổi thay
Ngàn năm tình chẳng tàn phai
Nghiệp duyên còn ẩn tiếng ai gọi thầm !

Dec.03,2016

Thứ Sáu, 2 tháng 12, 2016

THOÁNG TÌNH XƯA - NL

Những con đường lá me
Bây giờ chừ thấy lạ !
Người ơi giờ đâu tá ?
Như giấc ngủ thoáng qua

Hàng dừa xanh nghiêng bóng
Những con đường bình yên
Chiều về còn loáng thoáng
Tà áo trắng trinh nguyên

Ta về tìm dĩ vãng
Thời gian nào phôi pha
Ta nghe hồn lãng đãng
Tiếng vọng còn vang xa

Một cõi nào tồn đọng
Cho ta những nhớ mong
Một chút tình lận đận
Thả  hồn vào mênh mông

Dec.2,2016


Thứ Năm, 17 tháng 11, 2016

THỜI TUỔI NGỌC - NL

Anh về đây tình bao năm thức giấc
Lớp lớp xô bờ sóng dậy mỗi chiều rơi
Thuở yêu em anh còn nghe ngây ngất
Từng đêm về giấc ngủ mộng em tôi

Quê nhà đó mà sao lòng trống vắng
Người thương ơi em còn mãi trong ta
Hàng dừa phủ con đường mòn quen lối
Dẫn anh về tìm hơi ấm trên môi

Anh vẫn nhớ con sông xưa tắm mát
Bóng chiều thu toả rộng cảnh đồng quê
Nằm mơ màng trên liếp dừa xào xạc
Ngắm mây bay theo gió cuốn mây về

Anh lặng lẽ nghe bước chân thầm nhắc
Tưởng như chừng ngày đó còn bên em
Tiếng rơi đều nhịp đập của con tim
Vòng tay ấy ấm lòng trong hơi thở

Thôi em nhé ! anh trao lòng mơ ước
Trả lại em những năm tháng yêu thương
Cảm ơn em cho anh mảnh tơ vương
Em đã đến cho anh tròn tuổi ngọc

Apr.05,2010

Thứ Năm, 3 tháng 11, 2016

BÀN TAY - NL

Một bàn tay nắm chặt
Dòng máu chảy trong tay
Nhỏ xuống đời lạnh ngắt
Ngày ra đi em từ giã luống cày

Một bàn tay  rộng mở
Thả lòng với ước mơ
Ngàn năm xưa còn dấu
Hoa vàng với tuổi thơ

Còn bàn tay nào nữa
Dành lại cho quê hương
Thắp sáng đời lữ thứ
Cho Việt Nam yêu thương

Nov.03,2016

HƯƠNG CỐ NHÂN - NL

Dòng sông xưa ta nhớ về dĩ vãng
Chiếc áo nào thoáng hiện thuở tinh khôi
Sao ta nghe tim đập những bồi hồi
Như ngày cũ quê hương còn xót lại

Bên ghế đá trải dài hàng đá cuội
Xào xạc nghe ai nhịp bước đi qua
Hồn xao động chờ đợi nép bên hoa
Ngày mới lớn con tim hồng  chợt thức

Trời hôm xưa còn thấy lòng ngây  ngất
Hương cố nhân sao cứ mãi quanh đây
Đôi cánh tay ôm ấp đôi vai gầy
Phút tỏ tình đôi môi đầy nắng ấm

Trời hôm nay còn như nghe tiếng sóng
Dội vào lòng những năm tháng yêu thương
Vẫn còn loang màu chiều tím vương vương
Trên làn tóc đã phai màu sắc thắm

Nov.03,2016


Thứ Tư, 2 tháng 11, 2016

GÁI QUÊ - NL

Ánh vàng ghe nhỏ
Sương chiều thả khói đi hoang
Đèn trời giăng bủa
Ngã nghiêng bóng dáng em ngoan

Hồn say chếnh choáng
Thương ngày lược giắt thơ ngây
Nước đùa loáng thoáng
Mơ màng tựa áng xuân đầy

Bờ vai ngày ấy
Êm đềm ru giấc tiên bồng
Tôi nghe lòng giấy
Viết đầy năm tháng thả giòng sông quê

Nov.02,2016


HÌNH BÓNG NHỚ THƯƠNG - NL

Ta nhớ từng sợi tóc
Mềm theo gió cuốn phôi pha
Nghe như tiếng khóc
Mưa chiều đổ xuống hiên nhà

Nhà ai vương khói
Mây mù tràn ngập đời ta
Còn nghe giọng nói
Anh về kẻo trể làng xa

Có ai ngóng đợi
Chim chuyền nhánh liễu nơi đâu
Tình xa duyên mới
Bao giờ trở lại vườn dâu hao gầy

Giòng sông vẫn chảy nơi đây
Đìu hiu hoang vắng tiếng ai gọi thầm

Nov . 02,2016

Thứ Ba, 1 tháng 11, 2016

TIẾNG.... - NL


Tiếng thương mở cửa mối tình
Tiếng cười  rạng rỡ bình minh cho đời
Tiếng thầm gọi nhớ em tôi
Tiếng hôn còn ngọt bên trời nhớ nhung

Nov. 01,2016

Thứ Hai, 24 tháng 10, 2016

THƯƠNG VỀ MIỀN TRUNG - NL

Người ở người đi cứ vạn lần
Trò chơi cút bắt cảnh trời dông
Mây mù giăng toả nơi quê mẹ
Khí độc ngập tràn khắp phố đông
Lũ lụt đưa về miền trung khổ
Quan tham ki cóp túi tiền nông
Bao giờ cho hết đời mưa gió
Nhà nước thương dân trọn tấm lòng

Oct.24,2016

Chủ Nhật, 23 tháng 10, 2016

Trần Thảo: TƯỞNG NIỆM NHÀ VĂN / THƠ THANH TỊNH

Chủ Nhật, ngày 23 tháng 10 năm 2016


Niên khóa 1970 - 1971 tôi vào học lớp đệ thất, là lớp sáu bây giờ, của trường trung học công lập Trần Quốc Tuấn của tỉnh Quảng Ngãi. Với tuổi đời vừa qua mười hai, tôi cũng như hầu hết những học sinh khác thời đó, vừa nôn nao, vừa hồi họp khi bản thân mình sắp bước qua một giai đoạn mới mẻ trong cuộc đời học sinh của mình. Tôi nhớ người thầy dạy chúng tôi Kim Văn và Cổ Văn trong niên học ấy chính là Thầy Trương Quang Lục. Thầy Lục dáng người cao lớn, giọng giảng bài trầm ấm, khá thu hút chúng tôi, những học sinh vừa từ giả môn văn với những bài luận tả con mèo, con chó của bậc tiểu học, để đón nhận những cảm quan tinh tế hơn về Cổ Văn và Kim Văn. Tôi rất thích Văn Học, nên thường say mê nghe Thầy Lục giảng những truyện thơ như Bích Câu Kỳ Ngộ, tả mối tình thật thơ mộng đầy tính cách huyền thoại của Tú Uyên và Giáng Kiều. Trong giờ Kim Văn, chúng tôi được học về những nhà văn, nhà thơ cận đại như Thanh Tịnh, Bàng Bá Lân, Anh Thơ v.v. Dĩ nhiên với tâm hồn non nớt của chúng tôi, những cậu bé lớp đệ thất, thì chương trình văn học không đòi hỏi phải đào sâu vào những tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ. Trong những tác giả Kim Văn, người đã đem lại những xúc động dạt dào nhất cho tôi, và tôi tin là cho bất kỳ học sinh nào cũng vậy, là nhà văn, nhà thơ Thanh Tịnh. 

Tôi đã không quá đáng khi viết như thế. Bởi vì chỉ với mỗi truyện ngắn TÔI ĐI HỌC, nhà văn Thanh Tịnh đã khơi dậy cái tình cảm lãng mạn, đáng yêu biết bao của một thời tuổi nhỏ. TÔI ĐI HỌC, được viết dưới dạng truyện ngắn, nhưng trong đó có những đoạn đọc lên nghe êm ái, nhẹ nhàng như những tứ thơ.


"Hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều, và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường."


hay
"Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn : Hôm nay tôi đi học."

Nhà Văn Thanh Tịnh không sáng tác nhiều thơ, nhưng những bài thơ của ông đều để lại trong lòng độc giả ấn tượng rõ nét về một tâm hồn lãng mạn, yêu quê hương tha thiết. Ông từng đoạt giải nhất thi ca với bài thơ Rồi Một Ngày, đồng hạng với thi sĩ Phạm Đình Bách trong cuộc thi thơ do Hà Nội Báo tổ chức vào năm 1936. Những tác phẩm khác của ông như Quê Mẹ, Ngậm Ngải Tìm Trầm v.v. cũng được độc giả chú ý và yêu thích.

Sau này, khi tìm hiểu thêm về ông, tôi mới hay ông sinh tại Huế năm 1911. Vào năm 1945, ông thoát ly gia đình, bỏ lại vợ con để đi theo cách mạng. Năm 1946, ông từ chiến khu Bình Trị Thiên, tập kết thẳng ra miền bắc Việt Nam. Quân hàm đầu tiên ông được phong là đại úy, và cuối cùng trước khi về hưu, ông mang quân hàm đại tá. Ông đã từng là nhân tố thành lập Hội Nhà Văn Việt Nam tại Hà Nội.
Điều khiến tôi, cho tới giờ này, luôn giữ lòng yêu mến và kính trọng ông chính là phong cách quân tử, hào sảng và chân thành với bạn bè. Đọc những bài viết của khá nhiều văn nghệ sĩ miền Bắc viết về ông, tôi nghĩ cái động cơ thôi thúc ông thoát ly gia đình, tập kết ra bắc chính là lòng yêu nước nồng nàn của một chàng trai đất Việt được sinh ra trong một giai đoạn nhiễu nhương, muốn quên tình riêng để đáp lời sông núi, góp sức mình để mong đem vinh quang thực sự về cho nòi giống. Chính vì yêu nước quá nồng nàn, chẳng riêng ông mà cả một thế hệ thanh niên thời ấy đã lên đường như trong bài hát Nam Bộ Kháng Chiến:
"Mùa thu rồi, ngày hăm ba, ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến. Vùng chân trời đầy hoang vu, muôn dân nam nhịp chân tiến ra trận tiền..."

Tiếc thay, giòng máu nóng anh hùng hừng hực đó đã bị lợi dụng, bị bán đứng, bị bịt mắt, để khi biết rõ bộ mặt thật của những tên cai thầu chính trị cộng sản, thì tất cả đã sa vào cái vòng kim cô, không thể nào thoát ra được. Đây cũng chính là lý do mà vụ án NHÂN VĂN GIAI PHẨM bùng nổ ở miền Bắc. Bắt đầu bởi những văn nghệ sĩ trong quân đội như Văn Cao, Phùng Quán, Trần Dần, Hữu Loan v.v. Bởi vì những tài năng văn học đó phải sống và viết theo chỉ thị, không một chút sáng tạo nào, nên lâu ngày cái xú bắp cần được xả là chuyện đương nhiên. Và những kết quả mà những văn nghệ sĩ trong vụ NVGP phải chịu đựng trong nhiều năm trời với sự tra tấn, cô lập, dìm xuồng đã khiến cho những người muốn tìm hiểu phải kinh sợ. Nhà Văn Thanh Tịnh không dính vô trong vụ NVGP. Có phải ông hài lòng với sự ưu đãi của chế độ Hà Nội, và thấy thỏa mãn với công việc làm văn nô cho đảng? Theo cái nhìn của tôi thì không phải vậy. Ông Thanh Tịnh là người nổi tiếng hay xuề xòa, hay hài hước nhẹ nhàng với tất cả bạn hữu, đồng đội từ khi ông còn trong lực lượng vệ quốc quân. Con người chân thành ấy, tôi nghĩ ông không có ngu để không thấy được cá nhân mình và cả một thế hệ trai trẻ đã bị lừa bịp, ông chỉ giả dại qua ải, vì ông không thấy được một tia hy vọng nào trong hoạt động có tính cách bộc phát của nhóm NVGP. Nhưng ông Thanh Tịnh vẫn giữ được tư cách quân tử của mình. Những sáng tác của ông sau năm 1945, có thể nói là vô thưởng vô phạt. Ông không a dua theo đóm ăn tàn như những Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận v.v. Những tài năng một thời chói sáng ấy, đã cúi rạp mình làm văn nô cho đảng, sẵn sàng bán bạn cầu vinh, bốc thơm những già Hồ, Sóng Hồng, Tố Hữu v.v. lên tận trời xanh. Có ai mà ngờ một Huy Cận mà viết câu " Đánh Mỹ vui như trẩy hội", Chế Lan Viên thì "Tổ quốc ta có bao giờ đẹp thế này chăng ? " và Xuân Diệu với bài thơ sắt máu a dua trong cải cách ruộng đất nghe sao mà rùng mình.


Ông Thanh Tịnh không tham gia NVGP, nhưng ông luôn lưu tâm giúp đỡ những bạn văn, thơ bị đảng đày đọa, dở sống dở chết trong vụ án nổi tiếng này. Điển hình là nhà thơ Phùng Quán, người nổi tiếng với bài thơ LỜI MẸ DẶN, với hai câu kết "Giấy bút tôi, ai cướp giật đi. Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá." Vì dính vô NVGP, Phùng Quán cũng như khá nhiều người khác như Trần Dần, Văn Cao, Hữu Loan, Phùng Cung v.v. đã bị đảng cô lập, đày đọa về tinh thần lẫn vật chất. Chỗ ở không có, phiếu thực phẩm bị cắt, mọi sáng tác đều không có chỗ dùng, người người xa lánh vì sợ bị liên lụy. Trong hoàn cảnh đó, ông Thanh Tịnh lại hề hà xuất hiện, ông vẽ cho Phùng Quán cái cần câu cơm, bằng cách là có những sáng tác nào vô thưởng vô phạt mà ở trên cần ông viết, ông nhường lại cho Phùng Quán chấp bút, rồi cứ lấy tên ông ra mà in, tiền nhuận bút ông trao cả cho gia đình Phùng Quán. Sự tích người ta kể lại là nhà thơ "dùng dao viết văn lên đá " đã quỳ xuống chân thành tri ân Thanh Tịnh đã cứu mình. Cũng chính nhờ sự giúp đỡ tận tình này mà sau này khi Phùng Quán qua đời, vợ của ông, Bà Bội Trâm, đã có tiền để chuyển hài cốt của nhà thơ về Huế, nơi chôn nhau cắt rốn của ông.

Điều tôi thấy xúc động nhất là hoàn cảnh gia đình của nhà thơ Thanh Tịnh rất bi thương. Như đã nói ở trên, năm 1945 ông thoát ly gia đình, theo tiếng gọi non sông, rồi từ đó ông không có bất kỳ liên lạc nào với vợ con. Những cán bộ tập kết ra Bắc phần lớn đều lập lại gia đình, chả quan tâm gì tới vợ con còn ở trong miền nam VN. Nhưng ông Thanh Tịnh vẫn cứ sống cu ky một mình như vậy, với hy vọng đất nước hòa bình trở lại để về vui buổi đoàn viên. Nhưng sau năm 1975, khi ông trở lại Huế thì mới biết người vợ của mình đã lập gia đình với một đại tá của quân đội miền nam Việt Nam. Nhà thơ Thanh Tịnh đã đứng ra làm đơn bảo lãnh cho người chồng sau của vợ mình, sau đó ông trở lại miền Bắc với nỗi u uất của riêng mình, và không trở lại Huế nữa .Cuộc chiến Việt Nam bi thương, và không cần thiết đó, đã đem lại bao bi kịch ê chề cho người dân hai miền nam bắc, mất mát chia lìa đã là chuyện không thể nào tránh khỏi, nhưng đọc câu chuyện đời của nhà thơ Thanh Tịnh, ai có chút lòng trắc ẩn, cũng khó nén một tiếng thở dài. Nghe đâu sau khi ông qua đời, nhằm kỷ niệm một trăm năm ngày sinh của ông, những thân hữu và cộng tác viên trong Hội Nhà Văn có tổ chức một buổi lễ kỷ niệm trang trọng, và có mời người con trai của ông là Trần Thanh Vệ từ Huế ra tham dự, nhưng anh đã không đến được, lý do là mẹ của anh vừa mới qua đời. Âu cũng là định mệnh, khi đã nhắm mắt xuôi tay, tất cả chỉ còn là hạt bụi.

Viết đến đây, tôi lại nhớ đến bài thơ Et S’il Revenait Un Jour, Rồi Một Hôm , của nhà thơ người Bỉ Maurice Maeterlinck, do Thanh Tịnh phỏng dịch :


Rồi một hôm, nếu về, cha hỏi :
Mẹ ở đâu ? Con biết nói sao ?
Con hãy bảo : Trông cha mòn mỏi
Mẹ từ trần sau mấy tháng đau.

Nếu cha hỏi sao nhà vắng vẻ ?
Mẹ khuyên con hãy trả lời sao ?
Con lặng chỉ bình hương khói rẽ
Và trên giường chỉ đĩa dầu hao.

Nếu cha hỏi cặp đào trước ngõ
Sao chỉ còn một gốc ngả nghiêng ?
Con sẽ chỉ một cây đào nhỏ
Bên cây tùng, rồi đứng lặng yên.

Còn mồ mẹ, nếu cha muốn biết
Phải hướng nào con nói cùng cha ?
Con lặng chỉ bầu trời xanh biếc
Và bên trời chỉ nội cỏ xa.

1936

Cuộc đời như phù vân, có đó rồi mất đó. Nhưng là một nhà văn, nhà thơ chân chính, hẳn ai cũng mong cho tác phẩm của mình còn sống mãi với thời gian. Có những ánh sao chói sáng trên bầu trời, nhưng rồi vụt tắt. Có thể là vì bản mệnh ngắn ngủi như Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Nguyễn Nho Sa Mạc, Đặng Thế Phong v.v. nhưng thơ nhạc của họ vẫn sống mãi trong tâm hồn người thưởng ngoạn. Cũng có thể chính họ tự khai tử chính mình, chối bỏ những đứa con mà họ đã đứt ruột sinh ra như trường hợp của Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận v.v. 

Riêng trường hợp của Nhà Thơ Thanh Tịnh, thơ văn của ông, tư cách của ông, đã khiến cho tôi cực kỳ xúc động. Có thể ông rất buồn vì hoàn cảnh đau thương của gia đình mình, nhưng tôi tin rằng, cho tới phút cuối của cuộc đời, ông hẳn đã vô cùng hạnh phúc khi biết rằng, trong khi chế độ Hà Nội chối bỏ tất cả những sáng tác của ông thời kỳ trước năm 1945, thì trong miền nam Việt Nam đã có hằng triệu học sinh, sinh viên luôn ái mộ những đứa con tinh thần của ông, bởi có người học sinh nào, mà không thấy tâm hồn trong trắng của mình rung động như cậu bé lần đầu theo chân mẹ đến trường, trong một buổi sáng đầy sương thu và gió lạnh?

Kính chúc hương linh Nhà Thơ luôn mỉm cười an lạc nơi cõi vĩnh hằng.

Truyện Ngắn THANH TỊNH: TÔI ĐI HỌC

Chủ Nhật, ngày 23 tháng 10 năm 2016


Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.
Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.
Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã. 


Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học.
Tôi không lội qua sông thả diều như thằng Quý và không ra đồng nô hò như thằng Sơn nữa.
Trong chiếc áo vải dù đen dài tôi cảm thấy mình trang trọng và đứng đắn.
Dọc đường tôi thấy mấy cậu nhỏ trạc bằng tôi, áo quần tươm tất, nhí nhảnh gọi tên nhau hay trao sách vở cho nhau xem mà tôi thèm. Hai quyển vở mới đang ở trên tay tôi đã bắt đầu thấy nặng. Tôi bặm tay ghì thật chặt, nhưng một quyển vở cũng chìa ra và chênh đầu chúi xuống đất. Tôi xóc lên và nắm lại cẩn thận. Mấy cậu đi trước có sách vở thiệt nhiều lại kèm cả bút thước nữa. Nhưng mấy cậu không để lộ vẻ khó khăn gì hết.
Tôi muốn thử sức mình nên nhìn mẹ tôi:
– Mẹ đưa bút thước cho con cầm.
Mẹ tôi cúi đầu nhìn tôi với cặp mắt thật âu yếm:
– Thôi để mẹ nắm cũng được.
Tôi có ngay cái ý kiến vừa non nớt vừa ngây thơ này: chắc chỉ người thạo mới cầm nổi bút thước.
Ý nghĩ thoáng qua trong trí tôi nhẹ nhàng như một làn mây lướt ngang trên ngọn núi.
Trước sân trường làng Mỹ Lý đầy đặc cả người. Người nào áo quần cũng sạch sẽ, gương mặt cũng vui tươi và sáng sủa.
Trước đó mấy hôm, lúc đi ngang làng Hòa An bẫy chim quyên với thằng Minh, tôi có ghé trường một lần.
Lần ấy trường đối với tôi là một nơi xa lạ. Tôi đi chung quanh các lớp để nhìn qua cửa kính mấy bản đồ treo trên tường. Tôi không có cảm tưởng gì khác là nhà trường cao ráo sạch sẽ hơn các nhà trong làng.
Nhưng lần này lại khác. Trước mặt tôi, trường Mỹ Lý vừa xinh xắn vừa oai nghiêm như cái đình Hòa Ấp. Sân nó rộng, mình nó cao hơn những buổi trưa hè đầy vắng lặng. Lòng tôi đâm ra lo sợ vẩn vơ.
Cũng như tôi, mấy cậu học trò mới bở ngỡ đứng nép bên người thân, chỉ dám nhìn một nửa hay dám đi từng bước nhẹ. Họ như con chim con đứng trên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ. Họ thèm vụng và ước ao thầm được như những học trò cũ, biết lớp, biết thầy để khỏi phải rụt rè trong cảnh lạ.
Sau một hồi trống thúc vang dội cả lòng tôi, mấy người học trò cũ đến sắp hàng dưới hiên rồi đi vào lớp. Chung quanh những cậu bé vụng về lúng túng như tôi cả. Các cậu không đi. Các cậu chỉ theo sức mạnh kéo dìu các cậu tới trước. Nói các cậu không đứng lại càng đúng hơn nữa. Vì hai chân các cậu cứ dềnh dàng mãi. Hết co lên một chân, các cậu lại duỗi mạnh như đá một quả banh tưởng tượng. Chính lúc này toàn thân các cậu cũng đang run run theo nhịp bước rộn ràng trong các lớp.
Ông đốc trường Mỹ Lý cho gọi mấy cậu học trò mới đứng lên trước lớp ba. Trường làng nhỏ nên không có phòng riêng của ông đốc. Trong lúc ông đọc tên từng người, tôi cảm thấy như quả tim tôi ngừng đập. Tôi quên cả mẹ tôi đang đứng sau tôi. Nghe gọi đến tên, tôi tự nhiên giật mình và lúng túng. Sau khi đọc xong mấy mươi tên đã viết sẵn trên mảnh giấy lớn, ông đốc nhìn chúng tôi nói sẽ:
– Thế là các em đã vào lớp năm. Các em phải cố gắng học để thầy mẹ được vui lòng, và để thầy dạy chúng em được sung sướng. Các em đã nghe chưa? (Các em đều nghe nhưng không em nào dám trả lời. Cũng may đã có tiếng dạ rang của phụ huynh đáp lại).
Ông đốc nhìn chúng tôi với cặp mắt hiền từ và cảm động. Mấy cậu học trò lớp ba cũng đua nhau quay đầu nhìn ra. Và ngoài đường cũng có mấy người đứng dừng lại để nhìn vào. Trong những phút giây này chúng tôi được người ta ngắm nhìn nhiều hơn hết. Vì vậy đã lúng túng chúng tôi càng lúng túng hơn.
Ông đốc lấy cặp kính trắng xuống rồi nói:
– Thôi, các em đứng đây sắp hàng để vào lớp học. 

Tôi cảm thấy sau lưng tôi có một bàn tay dịu dàng đẩy tôi tới trước. Nhưng người tôi lúc ấy tự nhiên thấy nặng nề một cách lạ. Không giữ được chéo áo hay cáng tay của người thân, vài ba cậu đã từ từ bước lên đứng dưới hiên lớp. Các cậu lủng lẻo nhìn ra sân, nơi mà những người thân đang nhìn các cậu với cặp mắt lưu luyến. Một cậu đứng đầu ôm mặt khóc. Tôi bất giác quay lưng lại rồi dúi đầu vào lòng mẹ tôi nức nở khóc theo. Tôi nghe sau lưng tôi, trong đám học trò mới, vài tiếng thút thít đang ngập ngừng trong cổ. Một bàn tay quen nhẹ vuốt mái tóc tôi.
Ông đốc nhẫn nại chờ chúng tôi.
– Các em đừng khóc. Trưa này các em được về nhà cơ mà. Và ngày mai các em lại được nghỉ cả ngày nữa.
Sau khi thấy hai mươi tám cậu học trò sắp hàng đều đặn dưới hiên trường, ông đốc liền ra dấu cho chúng tôi vào lớp năm. Một thầy trẻ tuổi, gương mặt hiền từ, đang đón chúng tôi vào cửa lớp. Trong thời thơ ấu tôi chưa bao giờ xa mẹ tôi như lần này. Tôi cũng lấy làm lạ vì có những hôm đi chơi suốt cả ngày với chúng bạn ở đồng làng Lệ Xá, lòng tôi vẫn không cảm thấy xa nhà hay xa mẹ tôi chút nào hết.
Một mùi hương lạ xông lên trong lớp. Trông hình gì treo trên tường tôi cũng thấy lạ và hay hay. Tôi nhìn bàn ghế chỗ tôi ngồi rất cẩn thận rồi tự nhiên nhận là vật riêng của mình. Tôi nhìn người bạn tí hon ngồi bên tôi, một người bạn tôi chưa hề biết, nhưng lòng tôi vẫn không cảm thấy sự xa lạ chút nào. Sự quyến luyến ấy tự nhiên và bất ngờ quá đến tôi cũng không dám tin là có thật. Một con chim con liệng đến đứng trên bờ cửa sổ, hót mấy tiếng rụt rè rồi vỗ cánh bay cao.
Tôi đưa mắt thèm thuồng nhìn theo cánh chim. Một kỷ niệm cũ đi bẫy chim giữa cánh đồng lúa bay trên bờ sông Viêm sống lại đầy dẫy trong trí tôi.
Nhưng những tiếng phấn của thầy tôi gạch mạnh trên bảng đen đã đưa tôi về cảnh thật. Tôi vòng tay lên bàn chăm chỉ nhìn thầy viết và lẩm bẩm đọc:
Bài tập viết: Tôi đi học! 
[Rút từ tập truyện ngắn QUÊ MẸ, 1941.
Trường xưa úa nắng
Lá vàng về cội
Thương thầy dạy dỗ một đời khó quên

Oct.23,2016

(Thầy Nguyễn Văn Hiệu đã vĩnh biệt chúng ta )

Thứ Tư, 19 tháng 10, 2016

CHIỀU THU XA VẮNG - NL

Thu ơi có nhớ !
Đã mấy mùa trôi
Nghe hồn liễu rũ
Bên trời xa xôi

Lá vàng lá đỏ
Lấp lánh trên mi
Thương đôi gót nhỏ
Trải thảm đường đi

Phố ơi có nhớ
Hơi lạnh heo may
Áo choàng bỡ ngỡ
Tóc xoã bờ vai

Tay nắm trong tay
Lần trong hơi ấm
Trái tim gợn sóng
Theo tình nhẹ lay

Nhớ em chiều nay
Bên trời xa vắng
Tình xưa gọi nắng
Tiếng lòng xa bay

Oct.19,2016


Thứ Ba, 18 tháng 10, 2016

MIỀN TRUNG BỊ NẠN LỤT - Bảo Vân

Miền trung bị nạn lụt
Người vật của tiêu hao
Em nghe mẹ khuyên bảo
Con nên giúp đồng bào
Em soạn chiếc áo ấm
Vội vã gửi ra trung
Chiếc áo không đáng giá
Gói ghém trọn tình thương

(trước năm 1975)

Thứ Hai, 17 tháng 10, 2016

THƯƠNG VỀ MIỀN TRUNG BẢO LỤT - NL

Hạt bụi đường in bóng cố hương
Nghìn xa thiên lý hận phong sương
Quốc kêu xao xác tình đồng loại
Nước lũ mênh mông tiếng oán hờn
Vọng thấu trời chiều cơn sóng vỗ
Trôi trôi điệu múa cảnh thê lương
Lễ hội chan hoà rơi nước mắt
Khóc thương dân Việt với tai ương

Oct.17,2016

Chủ Nhật, 16 tháng 10, 2016

THU NHỚ... - NL

Mơ màng thấy dáng em sang
Ồ  không ! thấp thoáng lá vàng bên hiên
Bao thu nắng khát môi mềm
Tình anh còn đó mà em đâu rồi

Oct.16,2016

Thứ Năm, 13 tháng 10, 2016

NỬA HỒN CHO EM - NL


Tôi thấy em từ trăm năm trước
trên vùng trời ngập nắng yêu thương
Hoa phượng hồng rơi rớt sân trường
Tà áo trắng bay bay trong gió

Tôi là bướm là mây là nắng
Thổi hồn đời trong tà áo em bay
Hương toả ngát trên tóc em lay
Tôi say ngủ trên bờ vai ngày ấy
Tôi là lá trên cây chiều thắm
thả theo em trên mỗi bước em về
xào xạc reo theo nhịp bước say mê
Thuở đầu đời tình yêu lên tiếng gọi
Tôi là ngốc trong tình em đắm đuối
thả linh hồn theo trái cấm phiêu du
Nửa hồn đời trôi nổi giữa thiên thu
....................................................
Dec.29,2015

Mùa đông tới
Mùa thu đi
Lá vàng theo gió cuốn về hư không

Trăm năm qua
Trăm năm tới
Mặt mày thuở đó tơi bời viễn phương

Lần ra đi
Lần gặp lại
Mà sao nghe thấy hình hài nát tan

Vô thường về cõi mênh mang
Dấu xưa còn đọng trên hàng cây khô

NL
Ngày mai có còn Việt Nam ?
Bây giờ chỉ thấy tàu tham đầy đường
Tiếng tàu ngọng nghịu diễu dương
Dùng tiền phá nát luân thường đảo điên
Dân Việt im miệng ngậm tiền
Chẳng còn biết đến tổ tiên ông bà
Mặc cho đồng loại rên la
Nhà tan nước mất la cà vui chơi
Ngày mai còn chỗ còn vui ?
Để còn thăm hỏi từ nơi ra đời !

NL

Thứ Sáu, 7 tháng 10, 2016

NỖI LÒNG XA ĐƯA - NL

Con sông xưa thuyền neo bến đổ
Sóng trong lòng vỗ mãi về đâu
Tiếng em lẫn tiếng kinh cầu
Trăm năm còn đó bạc đầu nhớ thương

Oct.7,2016


Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2016

TÔI NHỚ RẰNG ĐÂY ... - NL


Tôi nhớ rằng đây giữa bụi trần
Nghe hồn tan tác giữa trời trong
Rằng đây bên ấy xa vời vợi
Mỗi chiều mây tím gợi bâng khuâng

Tôi nhớ rằng đây giữa phố xa
Áo ai tươi tắn giữa quan hà
Hồng xanh tím đỏ còn nhiều nữa
Chỉ thấy có em trong lòng ta

Tôi nhớ rằng đây đời phiêu lãng
Mái nhà xưa ấy giồng hoa thưa
Có chút nắng vàng bên khung cửa
Len lén trộm nhìn em mộng mơ

Tôi nhớ rằng đây phận lẻ loi
Cho em tô thắm đẹp nụ cười
Cho mối tình anh còn xao xuyến
Chúc em hạnh phúc phận lứa đôi

Sept.23,2016



Thứ Năm, 22 tháng 9, 2016

TỪ XA VẮNG VỀ ĐÂU ? - NL

Nàng từ xa vắng về đâu ?
Tôi từ xa vắng về mầu yêu thương
Có em có bạn có trường
Có thầy cô giáo con đường áo bay
Nàng từ xa vắng nào hay
Tôi từ xa vắng nhớ hoài hoa xuân

Sept.22,2016

HỒN THU CÒN ĐÓ ! - NL

Đây mùa thu đây mùa thương nhớ
Những bóng hình tàn úa mộng chiêm bao
Ngày mới lớn tình sóng xô dạt dào
Nghe ấm áp bên người em nhỏ bé

Đây mùa nghe lá thu sầu lặng lẽ
Hai đứa buồn trong giây phút chia phôi
Nghe trái tim đau xót lòng bồi hồi
Ngày xa vắng có bao giờ gặp lại

Đây Lá chết hồn thu vàng về cội
Liệm mối tình dang dở mộng chung đôi
Tôi cùng em thương mến trọn đường đời
Mãi  trở lại trên từng mùa thu nhớ

Sept.22,2016

Thứ Tư, 21 tháng 9, 2016

LỜI RU CỦA MẸ - NL

Lời ru của mẹ à ơi !
Mấy nghìn năm lịch sử xa xôi
Văn hoá Tây Tàu có khác
Sao làm đảo lộn  giống nòi

Lời ru của mẹ à ơi !
Thương con thương nước bao đời
Tiếng khóc oa oa ngày mới lớn
Dạy con thật thà  trên môi

Lời ru của mẹ à ơi !
Tổ tiên dựng nước tơi bời
Lời khuyên hãy gìn giữ lấy
Công ơn ghi nhớ muôn đời

Lời ru của mẹ à ơi !
Đàn con giờ đã nên người
Sao đành cam tâm dâng đất
Cho Tàu giày xéo biển khơi

Sept.21,2016


Thứ Ba, 20 tháng 9, 2016

TIẾNG CHUÔNG CHIỂU THU - NL

Con sông xưa chảy lững lờ
Cầu đưa qua lối hẹn hò cố nhân
Chuông nhà thờ đổ  đinh đong
Chân theo nhịp thở xuôi dòng trầm luân
Người gieo nỗi nhớ mênh mông
Lòng còn vẳng tiếng chuông ngân năm nào

Sept.20,2016

ĐỒNG XANH NGẬM NGÙI - NL

Đây đồng xanh ta có nhau
Đây đồng xanh với luống cày
Ruộng lúa no lành cho ngày mai
Nhưng nay nước mắt ngậm ngùi
Thương người mất đất mồ côi thị thành

Sept.20,2016

Thứ Hai, 19 tháng 9, 2016

NHỚ NÀNG THU XƯA - NL

Thu ơi ta nói thu nầy
Vàng cây lá rụng bên vườn thu xưa
Ngó sang hàng xóm đong đưa
Lược cài mái tóc ngẩn ngơ trong lòng
Những chiều êm ả bâng khuâng
Nhớ nàng thục nữ bên song năm nào
Tôi nghe tình đã bay cao
Ngày rời quê mẹ xa nhau nghìn trùng
Còn đây hình bóng nhớ mong
Lâu lâu ẩn hiện tơ lòng  trào dâng

Sept.19,2016

Những giọt nắng long lanh
Trải thảm vàng trong gió
Bùi ngùi ruộng lúa tiếng hò cố hương

Sept.19,2016  - NL


Chủ Nhật, 18 tháng 9, 2016

Bạn khi buồn tìm vui
Thù khi vui tìm buồn
Cánh chuồn thù bạn gõ hồn thương đau

Sep. 18,2016

Thứ Sáu, 16 tháng 9, 2016

TRÒ ĐỜI - NL

Ngồi buồn đưa những ước mơ
Lên trời cao vút vẩn vơ phận người
Bay đi trên những năm trôi
Nhìn quanh chỉ thấy trò chơi cuộc đời

Sept.16,2016

Thứ Năm, 15 tháng 9, 2016

Tôi ơi !
Tôi là ai vậy
Chưa thành thân xác tôi thì ở đâu ?

Sept.15,2016

Đàn vịt trời kêu en éc
Ruộng vườn đâu sao lại tới đây
Ngơ ngơ ngác ngác tiếng xe ù ù

Sept.15,2016


NGƯỜI TRÍ THỨC CSVN - NL


Đất nước ai nghèo chết mặc ai
Tiền ông bỏ túi nhậu lai rai
Mua bằng cũng được vài trăm tỷ
Khoe của lại thêm tiếng anh tài
Bè bạn miệng đời khua lốp cốp
Cháu con danh giá được ra oai
Quê cha đất tổ không màng đến
Nếu có nguy nan chạy nước ngoài

Sept.15,2016

Thứ Tư, 14 tháng 9, 2016

Làn mây trắng
Bay ngang
Phập phồng hơi ấm tình mang vào lòng

Sept.14.2016

Chuông chùa
Văng vẳng xa đưa
Âm thanh đi mãi sao chưa thấy về

Sept.14,2016

Chiếc cầu
Đưa những ước mong
Bình tâm lặng ngắm dòng sông qua đời

Sept.14,2016

BÁN ĐƯỜNG TƠ - NL

Ruộng đồng ngày ấy lụi tàn dần
Cánh hạc con diều hương cố nhân
Người ấy ra đi ngày nắng nóng
Ruộng vườn bỏ lại giữa trời không
Con sáo kêu vang hồn đất nước
Lồng son tràn ngập khối tơ lòng
Thương em thân xác không còn nữa
Khóc tình trinh trắng thấu trời đông

Sept.14,2016

Hoa lài thấp thoáng
Trong áo ai bay
Hương chiều lay động  cánh đồng quê tôi

Sept.14,2016

Thứ Ba, 13 tháng 9, 2016

Đoá cúc vàng mới nở
Đẹp làm sao ! từng cánh tươi vui
Như miệng em cười trong hoa nắng nhảy

Sept.13,2016

THAY LỜI TRÍ THỨC VN TRONG NƯỚC CẢM ƠN ĐẢNG CS


Nầy là ly rượu vui
Nầy là ly rượu tình
Mỗi ngày cùng chia sẻ
Hưởng thụ nước thanh bình

Thời quá khứ hãy quên
Nhìn tương lai làm giàu
Cuộc đời có bao lâu
Hãy nâng cao đẳng cấp

Mặc ai có đói nghèo
Mặc ai có lầm than
Lo gia đình vinh quang
Rạng rỡ cùng bè bạn

Ai nói nước ly loạn
Chẳng nghe tiếng súng đâu
Buôn bán ngày rộng mở
Với các nước lân bang

Ta không cần biểu tình
Mọi Chuyện nhà nước lo
Mong cho đảng vững mạnh
Được thêm phần ấm no

Những người bạn thuở xưa
Có tình cảm dư thừa
Tiền tài và danh vọng
Cùng nói chuyện cợt đùa

Ai nói đảng dâng đất
Ai nói đảng yếu hèn
Tàu Việt là anh em
Cùng chung một nòi giống

Ta là người trí thức
Được đảng và nhân dân
Ưu đãi ta ăn học
Mừng cộng sản muôn năm

Sept.13,2016




Thứ Hai, 12 tháng 9, 2016

Flowers and Bees make the honey
Ending are died in the honey

Sept.12,2016  - NL

THU NHỚ NHÀ - NL

Chớm thu lạnh giữa thu sầu
Tình tôi da diết nhuộm mầu cố hương
Xứ người ôm ấp mến thương
Đêm đêm mộng mị còn vương mái nhà

Sept.12,2016


Chủ Nhật, 11 tháng 9, 2016

Trời mây xám
Chiếc lá vàng
Đong đưa nhịp thở tiếng đàn gieo oan

Sept.11,2016 - NL

Vũ trụ nầy
Xác thân kia
Ngàn năm làm bạn nói lời hư không

Sept.11,2016 - NL

Những người bạn
Những ngã đường
Trái tim ẩn giấu trong lòng quê hương

Sept.11,2016 - NL

Trong thinh lặng
Nỗi cô đơn
Bóng ma ẩn hiện giữa lòng hoang vu

Sept.11,2016  - NL

Giọt nước mắt cho đời
Giọt nước mắt cho người
Còn giọt nước mắt nào cho " Tôi" ?

Sept.11,2016                                   NL

Thứ Bảy, 10 tháng 9, 2016

 ĐÀM TRUNG PHÁP: ĐỌC THƠ HAIKU NHẬT BẢN QUA LỐI VIẾT ROMAJI

Thứ Bảy, ngày 10 tháng 9 năm 2016


Mỗi bài thơ haiku (俳句) của người Nhật Bản là một tiểu vũ trụ thu gọn trong đúng 17 âm tiết. Trong cái hạn hẹp tối đa ấy, nhà thơ diễn tả cảm nghĩ của mình trước thiên nhiên và còn cho người đọc thoáng thấy một hình ảnh vĩnh cửu phát hiện qua một cảnh trí thông thường chóng phai mờ. Về điểm này thì có lẽ mỗi nhà thơ lớn, ở phương trời nào cũng vậy, đều có đôi chút tâm hồn haiku – như khi William Blake (1757-1827) đã thấy cả vũ trụ trong một hạt cát, cả thiên đường trong một đóa hoa dại (“to see a world in a grain of sand, a heaven in a wild flower”) hoặc như khi Đinh Hùng (1920-1967) mới chỉ nhìn vào đôi mắt lưu ly của Kỳ Nữ mà đã “thấy cả bóng một vầng đông thuở trước, cả con đường sao mọc lúc ta đi”!
         
Tổng số 17 âm tiết của một bài haiku được thu xếp thành 3 dòng thơ, thông thường với 5 âm tiết cho dòng thứ nhất, 7 âm tiết cho dòng thứ hai, và 5 âm tiết cho dòng thứ ba. Ba dòng thơ ấy không bắt buộc phải vần với nhau và cũng không cần những dấu chấm câu.

Thi bá Matsuo Basho (松尾笆僬) thuộc thế kỷ 17 là người đã nâng thơ haiku lên hàng nghệ thuật siêu đẳng, và cũng từ đó haiku trở nên thể thơ thông dụng nhất trong văn chương Nhật Bản. Nghệ thuật siêu đẳng này gắt gao đòi hỏi nhà thơ phải diễn tả rất nhiều, gợi ý tối đa trong một hình thức vắn tắt, cô đọng nhất. Mỗi bài haiku phải gây nên một ấn tượng trọn vẹn bằng cách đặt vào bên cạnh yếu tố thiên nhiên một câu gợi ý về một mùa trong năm hoặc một cảm xúc mạnh. Bài thơ dưới đây của Basho dùng hai yếu tố thiên nhiên (con đường vắng vẻ, lúc xẩm tối mùa thu) để làm bối cảnh cho một cảm xúc mạnh (sự hiu quạnh tột cùng):
kono michi ya || con đường ấy
yuku hito nashi ni ||  không người qua lại
aki no kure || trời xẩm tối mùa thu


Vì nhiều chữ Nhật Bản ở dạng đa âm tiết (thí dụ như danh từ shizukesa có nghĩa là sự thanh tịnh gồm 4 âm tiết), khi bị ghép vào mô thức haiku tiết chế, nhiều khi chỉ một hai chữ thôi đã chiếm hết cả dòng thơ rồi. Cho nên cả bài haiku chỉ là vài ba nét chấm phá để gợi cảnh, gợi tình, hoàn toàn ý tại ngôn ngoại  (意在言外).
Ba thi nhân haiku hàng đầu trong văn học Nhật Bản là Matsuo Basho (松尾笆僬 1644-1694), Yosa Buson (与謝蕪村 1716-1784), và Kobayashi Issa (小林一茶 1763-1827). Basho lẫy lừng nhất, thường được ví như một William Wordsworth (1770-1850) vì ông cũng đã suốt đời đi tìm sự cảm thông với thiên nhiên. Thơ Basho phảng phất cốt cách tiên của Lý Bạch (李 白 701-762) và nhuộm mầu ly tao của Đỗ Phủ (杜甫 712-770). Buson còn là một nhà danh họa ; thơ ông rất đẹp nét, trữ tình, và nhậy cảm. Issa mồ côi mẹ từ thuở ấu thơ và bị mẹ ghẻ hắt hủi ; từ năm 14 tuổi đã tự lập và nghiên cứu haiku. Thơ Issa bình dị và nhắc đến các sinh vật nho nhỏ như chim sẻ, dế, bươm bướm với nhiều thân thương trìu mến.
Haiku là thơ vịnh thiên nhiên qua bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Chúng ta hãy xem ba thi nhân nêu trên chấm phá cảnh trí thiên nhiên như thế nào qua các bài haiku lừng danh của họ, được trích dẫn bằng romaji là lối viết tiếng Nhật bằng mẫu tự la-tinh, rất dễ phát âm, dành cho những người quen với mẫu tự này như chúng ta. [Tiếng Nhật còn 3 lối viết khác là kanji, hiragana, và katakana. Kanji (漢字) dùng chữ Hán phát âm kiểu Nhật để viết các từ (words) ; hiragana (片仗名) dùng một hệ thống ký hiệu tượng trưng các âm tiết, để viết các từ Nhật Bản không có trong kanji ; và katakana (平仗名) dùng một hệ thống ký hiệu tượng trưng các âm tiết,  để viết các từ mượn (borrowed words), các tên ngoại quốc, hoặc để viết các phần nhấn mạnh trong câu].                                             
Ưu điểm của romaji là nó cho người đọc thấy rõ được các từ ngữ tượng thanh cũng như sự hòa hợp các âm tương tự (assonance) trong các dòng thơ. Trong bài viết này, các dòng chuyển sang tiếng Việt cố gắng giữ nội dung nguyên tác, mặc dù đôi khi phải thay đổi thứ tự ý nghĩa các câu để nghe cho thuận tai người Việt, và hoàn toàn không theo mô thức tiết chế của haiku.
Vì sự ngắn gọn tối đa, thi nhân haiku không thể sử dụng cú pháp cầu kỳ, nhưng điều này lại chính là một lợi điểm cho người chưa giỏi tiếng Nhật nhưng thích đọc thơ haiku. Quả thực, chỉ cần một kiến thức căn bản về cú pháp Nhật ngữ và một cuốn tự điển Nhật dùng lối viết romaji dễ tra cứu mục từ sắp xếp theo thứ tự a, b, c (thí dụ như cuốn Kodansha’s Romanized Japanese-English Dictionary dầy 666 trang xuất bản tại Tokyo năm 1993 mà bút giả sử dụng) là chúng ta có thể thưởng thức thơ haiku. Chính cuốn tự điển này đã giúp bút giả hiểu ý nghĩa bài thơ của Basho viết về tiếng ve kêu, trong đó có các từ shizukesa (= thanh tịnh), iwa ( = tảng đá lớn), semi ( = ve sầu), và koe ( = giọng). Kiến thức cú pháp căn bản của tiếng Nhật giúp người đọc nhận ra rằng giới từ ni (trong) phải đứng sau danh từ trong một đoản ngữ với giới từ đóng vai chủ động (prepositional phrase) –ngược hẳn với thói quen trong tiếng Anh và tiếng Việt. Vì vậy đoản ngữ  trong tảng đá lớn  khi dịch sang tiếng Nhật sẽ thành tảng đá lớn trong (iwa ni). Cần biết thêm, chủ từ trong câu được đánh dấu bằng tiểu từ ga hoặc wa đặt ngay sau nó, túc từ được đánh dấu bằng tiểu từ o đặt ngay sau nó, động từ thì lúc nào cũng phải đứng sau cùng trong câu, theo thứ tự gần như bất di bất dịch là “chủ từ + ga/wa + túc từ + o + động từ.” Còn tiểu từ no (của) trong tiếng Nhật được dùng như chữ chi () trong tiếng Tàu hoặc  sở hữu cách -’s  trong tiếng Anh. Do đó, semi no koe, phải hiểu là thiền chi thanh (蟬之声) hoặc the cicada’s voice.    
Mùa xuân mang lại những sinh vật mà Issa rất trìu mến. Có lẽ khi vỗ về tinh thần chú ếch mảnh mai, thi nhân cũng tự an ủi chính mình :
yase-gaeru || chú ếch èo uột
makeru na issa || đừng bỏ cuộc nhé
kore ni ari || issa  đang an ủi chú đây


Mưa xuân khiến hoa cỏ tốt tươi, nhưng phũ phàng làm sao, dưới làn mưa ấy cũng có một lá thư bị ai đó quăng đi để gió thổi vô rừng, như Issa diễn tả:
haru-same ya || mưa xuân
yabu ni fukaruru || lá thư vứt bỏ
sute tegami || gió cuốn vô rừng
Xuân là mùa của hạnh phúc, của tái sinh, nhưng thảm thay, Buson thấy xuân cũng là mùa của tàn sát sinh linh:
hi kururu ni || trong hoàng hôn
kiji utsu || tiếng bắn chim trĩ vang dội
haru no yama-be kana || triền núi mùa xuân
Trong ánh xuân rực rỡ, Basho ước ao được tự do, không vướng lụy hồng trần, như con sơn ca kia đang líu lo giữa thảm cỏ xanh:


hara-naka ya || giữa bãi cỏ
mono nimo tsukazu || sơn ca líu lo
naku hibari || chẳng ưu phiền
Xuân đi hạ đến, Basho chỉ nghe thấy tiếng ve sầu vang vọng vào kẽ đá. Thi nhân ghi lại cảm giác đầy thiền tính ấy qua ba dòng thơ sau :
shizukesa ya || thanh tịnh và
iwa ni shimi-iru || thấm vào đá lớn
semi no koe || tiếng ve ca
Khi vui hưởng đời, mấy ai thấy chết chóc đang chờ. Những con ve sầu của Basho cũng thế -- chúng có biết đâu là cuộc sống của chúng sắp tàn:
yagate shinu || ve sầu ca hát
keshiki wa mieru || chẳng mảy may hay biết
semi no koe || chết đã gần kề

Nhân sinh vô thường, có khác chi đám mây trôi luôn thay hình đổi dạng, qua thi bút huyền diệu của Issa:
oni to nari || đám mây trong ngày khổ ải
hotoke to naru ya || từ hình quỷ
doyoo-gumo || chuyển sang hình phật
Cỏ mùa hạ tốt tươi thật đấy, nhưng Basho cũng thấy dưới lớp cỏ ấy là mồ chôn những ước mơ hiển hách của biết bao đấng trượng phu:
natsu-kusa ya || cỏ mùa hạ
tsuwa-mono-domo ga || đang chôn vùi
yume no ato || giấc mơ chiến thắng cố chinh nhân
Chỉ nhìn những trái ớt chín mọng trên cây, nhà thơ kiêm danh họa Buson đã thấy cả một mùa thu đang làm lộng lẫy thiên nhiên:
utsukushi ya || đẹp biết bao
no-waki no ato no || những trái ớt đỏ tươi
toogarishi || sau trận thu phong
Người thường khi nghe tiếng dế rên rỉ đêm thu thì có lẽ chỉ buồn thôi, nhưng thi sĩ Issa đa cảm đã vội nghĩ ngay đến ngày mình xuống mộ. Mời nghe nhà thơ cô đơn đó căn dặn người bạn nhỏ nhoi đôi lời:
ware shinaba || này chú dế
haka-mori to nare || hãy làm người gác mộ
kirigirisu || sau khi ta lìa đời
Bóng đêm dầy đặc, một vài tia chớp, và tiếng kêu xào xạc của một con chim đi tìm mồi là mấy chấm phá tuyệt diệu vẽ lên một đêm thu cô quạnh đến rùng mình qua thần bút Basho :
inazuma ya || vài tia chớp lập lòe
yami no kata yuku || tiếng kêu vạc ăn đêm
goi no koe || bay vào cõi tối
Rồi mùa đông tr lại, với băng giá ngoài trời và băng giá trong lòng thi nhân. Lúc ấy Buson chỉ ước ao được đi ở ẩn trong núi Yoshino:
fuyu-gomori || mùa đông ẩn dật
kokoro no oku no || ngọn núi yoshino
yoshino yama || chiếm trọn tâm tư

Basho ít khi dừng bước giang hồ. Tuy vậy, ông ngao ngán trạng huống ốm đau khi chu du mùa đông qua những vùng hẻo lánh:
tabi ni yande || lữ hành trong bệnh hoạn
yume wa kare-no o || chờn vờn bóng ma
kake-meguru || trên cánh đồng hoang
TÀI LIỆU THAM KHẢO
The Japanese Haiku (1957) của Kenneth Yasuda, NXB Tuttle, Tokyo.
Matsuo Basho (1970) của Makoto Ueda, NXB Kodansha, Tokyo.  
Classic Haiku (1991) của Yuzuru Miura, NXB Tuttle, Tokyo.                                                           Kodansha’s Romanized Japanese-English Dictionary (1993), Tokyo.
ĐÀM TRUNG PHÁP
(Photo credit: Internet)